Tìm kiếm Blog này

Thứ Năm, 3 tháng 1, 2013

Chơi Bụi Trần Chơi!



Chơi theo kiểu bụi trần chơi,
Chơi trời, chơi đất, chơi nhân thế.
Chơi cả đồ chơi, hỏng giống ai!
Vậy là chơi chử, chử là chơi.
 Chơi cho biết mùi chơi chử chơi,
Để rồi mai này chử để chơi.
Chơi chờ chân cứng vẫn là chơi.
Kính mong đừng chơi giống bụi chơi!

Chơi !



Người đời sống tạm để mà chơi,
Ăn uống lo toan suốt cuộc đời.
Nào nhà, nào cửa, của riêng ai?
Đến thì tay trắng, và hơi thở.
Đến khi nằm xuống, nào của ai?
Thôi thì chơi chông chốc lát thôi.
Đừng buồn,đừng giận, giận nghĩ chơi,
Chơi không giận, ta học cách chơi!

Thứ Tư, 2 tháng 1, 2013

Đã Quá!



Sáng ra làm một chén trà,
Cho tâm thanh thoát, hiện ra sen vàng.
Người đi, người ở an nhàn,
Vui cùng Kinh Phật là sang nhất rồi!
Người về có nhớ Chùa tôi,
Dùng ngay một chén, trà tôi đậm đà.
Đà này đà nghĩa đà da,
Cũng là Đà Phật, thiệt là đà qua!

Thứ Tư, 14 tháng 11, 2012

Thường Niệm Phật !



Sáng ra niệm Phật Di Đà,
Trưa về nhai lại Di Đà vài câu.
Chiều về tỉnh giác từng câu,
Tối thì nằm ngủ nhớ câu Di Đà.
Khuya về nhớ Phật Di Đà,
Đêm đêm nhớ tưởng Di Đà trong Tâm.

Thứ Bảy, 10 tháng 11, 2012

_()_ Không Ai Không Khổ _()_ (ST)

Hai vợ chồng nhà nọ nuôi một con trâu và một con chó. Con chó được ở trong nhà còn con trâu phải ở riêng ngoài chuồng. Mỗi ngày trâu ra đồng cày bừa từ sáng sớm đến chạng vạng tối mới về, còn chó chỉ việc nằm ở cổng rào canh chừng cửa. Một hôm nọ trâu đi làm về, thấy chó nằm trước cửa nhà phe phẩy cái đuôi trông thật sướng, đang lúc mệt nhoài nó nổi cáu bảo:
- Không có ai sung sướng bằng mày, chỉ ăn rồi nằm. Thật là đồ vô tích sự!
Con chó nghe con trâu hậm hực nặng nhẹ mình thì buồn bã trong lòng, nghĩ trâu tuy to xác nhưng không có trí. Nó bèn nói với trâu:
- Anh trâu không hiểu đâu, tôi nào có sung sướng như anh tưởng. Anh tuy làm lụng nặng nhọc ngoài đồng nhưng có giờ có giấc, sáng ra đồng, chiều lại về, tối còn được nghỉ ngơi, cứ lăn ra mà ngủ. Còn tôi, tuy nằm canh cửa giữ nhà trông có vẻ nhàn hạ hơn anh, nhưng thật sự thì mệt cầm canh đâu có ai biết. Nằm lim dim mà lòng không yên, phải để tâm canh giữ cửa nhà, không dám lơ là công việc. Nếu ngủ quên hoặc bất cẩn để xảy ra mất trộm thì tôi khó mà sống được. Đêm đêm trong khi mọi người ngon giấc, tôi có được nghỉ ngơi đâu, tôi phải lắng tai nghe ngóng, đưa mắt nhìn trông, hễ nghe có động tĩnh gì thì phải sủa to để cảnh báo. Lúc chủ nhà vui thì tôi còn được ăn no, chứ khi họ có chuyện buồn bực trong lòng thì bỏ mặc tôi đói khát, không ai để mắt quan tâm. Những lúc sân si nổi lên họ còn trút giận lên đầu tôi không thương tiếc, họ đánh họ đá, xua đuổi, chửi mắng tôi. Mỗi khi bạn bè, người thân của họ đến chơi mà tôi không biết, tôi sủa tôi vồ thì họ đánh tôi, chửi tôi là đồ ngu. Bạn bè họ đến chơi thì không sao, còn bạn bè tôi đến chơi thì bị họ đuổi đi, ném đá đến toạc đầu đổ máu. Ngẫm lại coi, anh và tôi ai sướng hơn ai chứ?
Con trâu nghe nói mới hiểu tình cảnh của con chó, nghĩ mà thương nên an ủi:
- Đúng là mày cũng không sung sướng gì. Tao với mày ở chung nhà mà chưa một lần trò chuyện với nhau nên không hiểu nhau. Bây giờ tao đã hiểu nỗi khổ của mày, mày cho tao xin lỗi. Nghe mày nói tao mới biết cả hai chúng ta đều khổ cả.
Đang nói con trâu bỗng nghe tiếng chim ríu rít trên cành cây cao, nó nhìn nên rồi than thở:
- Bọn chim trời cá nước sung sướng làm sao! Chúng có thể tự do tự tại bên ngoài, không bị ai giam cầm quản thúc, không phải làm việc nặng nhọc vất vả, không phải chịu nỗi khổ của kiếp tôi đòi. Giá mà chúng ta có được cuộc sống vui vẻ như thế.
Khi ấy một chú chim nghe thấy lời trâu, bèn đáp lên lưng trâu nói:
- Anh trâu ơi, anh không biết đâu, tôi cũng không sung sướng hơn các anh đâu. Tuy loài chim chúng tôi không phải giữ nhà, không phải đi cày ruộng, không phải chịu cảnh tù túng bó buộc, nhưng chúng tôi cũng có nỗi khổ của mình. Hiểm họa luôn rình rập chúng tôi, những kẻ thợ săn có thể bắn chết chúng tôi bất cứ lúc nào. Tổ của chúng tôi làm khó khăn vất vả biết bao nhưng chưa chắc ở được lâu vì sự phá hại của con người. Trứng chúng tôi sinh ra chưa kịp nở con thì đã bị con người lấy mất. Loài người biết thương con của mình nhưng nào biết thương con của kẻ khác. Các anh chỉ bị hành hạ, còn tôi bị cướp đi mạng sống của mình, chết rồi còn bị nhổ lông, xẻ thịt, nấu nướng, thân thể không vẹn toàn. Loài người ỷ mạnh hiếp yếu, nào biết tôn trọng sự sống muôn loài. Các anh có cái khổ của các anh, chúng tôi cũng có cái khổ của chúng tôi, không có ai sung sướng cả.
Bầy cá đang ở dưới mé nước nghe trâu nói mình sướng cũng không đồng tình:
- Còn loài cá chúng tôi cũng không sung sướng đâu. Nhà cá chúng tôi thường bị loài người đánh bắt, mỗi lần bị sát hại chết đến cả bầy đàn. Không nơi nào là nơi để chúng tôi yên tâm mà sống, đâu đâu cũng có lưới bủa câu giăng, đâu đâu cũng có bàn tay con người truy bắt.
Trâu nghe chim và cá nói thì ngao ngán thở dài não nuột:
- Hóa ra tụi mày cũng khổ. Hiểu biết của tao hạn hẹp quá nên không biết còn nhiều nỗi khổ trên đời này.
Nói như thế rồi trâu buồn bã đi vào chuồng. Nó nằm mông lung suy nghĩ về thân phận của nó và bạn bè. Nó nghĩ, loài nào cũng bị con người hiếp đáp, làm hại. Cuộc đời thật bất công, loài người đối xử tệ bạc với các loài khác mà lại được sung sướng, không phải chịu sự khổ sở nào. Đang lúc đó bỗng trâu nghe tiếng quăng bát ném đĩa trong nhà vọng ra. Nó lắng tai nghe kỹ mới biết ông bà chủ đang gây gổ. Tiếng ông chủ gào lên:
- Sao tôi khổ đến thế này, không bằng con trâu con chó nữa! Con trâu đi cày còn được nghỉ, còn tôi suốt tháng quanh năm phải bận bịu với nhà cửa, vợ con, cơm áo gạo tiền, làm quần quật đêm ngày không lúc nào rảnh rỗi. Tôi khổ sở như vậy là vì ai? Vậy mà bà vẫn không để cho tôi yên, hễ thấy mặt là hạch sách, càm ràm, đay nghiến. Vừa phải thôi, làm quá tôi cho cả nhà ra chuồng trâu mà ở!
Nghe chủ nhà nói thế trâu bỗng giật mình, bất giác than rằng:
- Trời, coi chừng mình thành kẻ khổ sở nhất vì có nguy cơ bị con người chiếm luôn cái… chuồng!!!

Suy nghiệm

Thứ Sáu, 9 tháng 11, 2012

Chuyện Tôn Giả Bàn Đặc!



Tôn giả Châu Lợi Bàn Ðà Già là một đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni, người kém trí tuệ nhất. Tôn giả cũng có tên là Bàn Ðặc được sanh trong một gia đình nghèo khó, mộc mạc và sự cách biệt của cha mẹ. Cha Tôn giả là người vất vả, thiếu học, cuộc đời chỉ biết làm tôi tớ, còn mẹ lại là con gái của vị trưởng giả giàu có, học rộng hiểu xa. Hơn nữa bà còn nhanh nhẹ trước những việc khó
khăn. Thế mà cuộc hôn nhân của ông bà vẫn được thành tựu tốt đẹp, âu cũng là duyên kiếp.

Cuộc sống êm ả trôi qua, đôi vợ chồng cách biệt này vui sướng khi sắp sửa làm mẹ. Bà chuẩn bị về quê để chờ ngày khai hoa nở nhụy. Trên đường về lòng bà tràn ngập niềm vui, miên man nghĩ đến đứa con xinh xắn sắp chào đời mà quên đi quãng đường xa. Chẳng mấy chốc đã gần đến nơi chợt bà thấy đau nhói, mỗi lúc càng nhiều. Ðến lúc không chịu nổi nữa, bà phải dừng lại bên vệ đường, tìm vào nơi kín đáo, rồi hạ sanh một bé trai trắng trẻo, mập mạp, ấy chính là Bàn Ðặc. Thương thay cho kẻ sơ sinh phải vương mùi khổ lụy từ khi lọt lòng mẹ.

Thuở nhỏ Bàn Ðặc thật dại khờ, vả lại nhà nghèo nên không được đi học, vì vậy mà càng thêm dốt nát. Sau nhờ quả phước báo may mắn được Ðức Phật độ cho xuất gia tu hành. Ðức dạy ông bài kệ chỉ bốn câu nhưng vì căn tánh ngu độn mà ông học mãi không thông. Bấy giờ Ðức Phật dung phương tiện thực tế giáo hóa ông, chờ khi Châu Lợi Bàn Ðặc cầm chổi quét nhà Ðức Phật liền chỉ ngay cây chổi mà dạy rằng:

- Này Bàn Ðặc! Khi nào cầm đến cây chổi quét nhà thì con nhớ đọc hai tiếng: "Chổi Quét". Nếu lòng con giữ vững được chánh niệm hai tiếng "Chổi Quét" thì con quyết sẽ chứng Thánh đạo, giải thoát sanh tử luân hồi.

Lúc đầu, chỉ bấy nhiêu đó mà Bàn Ðặc cũng không nhớ nổi, hễ nhớ tiếng "Chổi" thì quên tiếng "Quét", mà nhớ tiếng "Quét" lại quên tiếng "Chổi". Thật con người của ông không có một chút trí nhớ nào hết, đến đỗi ai gặp ông cũng đều cười chê, đùa cợt.

Một hôm Vương tử Kỳ Vực đến cầu Ðức Phật và hàng đệ tử vào cung vua để thọ sự cúng dường, nhưng không mời Bàn Ðặc tham dự. Lúc Ðức Thế Tôn cùng hàng đệ tử đến cung thì Vương tử Kỳ Vực sẳn sàng bưng thau nước trong dâng lên Ðức Phật để rửa chân (theo phong tục Ấn Ðộ, đó là phép lịch sự của chủ đối với khách), nhưng Ngài chẳng tiếp lấy. Thấy vậy, Vương tử ngạc nhiên thưa hỏi:

- Kính lạy Ðức Thế Tôn! Con kính dâng thau nước trong này để Ngài rửa chân sao Ngài không nhận?

- Này Vương tử! Trong hàng để tử của ta đến nhận sự cúng dường có thầy Tỳ kheo Bàn Ðặc ở đó không?

- Kính lạy Ðức Thế Tôn! Thầy Tỳ kheo Bàn Ðặc chỉ có hai tiếng "Chổi Quét" còn không nhớ nổi, so lại không sánh bằng kẻ chăn dê nên con không có mời đến.

- Này Vương tử! Không phải vậy, Phật pháp phải là bình đẳng, không phân giai cấp cao hay thấp, cũng chẳng có kẻ sang người hèn, tất cả đều như nhau. Nếu Vương tử không mời Thầy Tỳ kheo Bàn Ðặc đến đây thì ta không nhận lấy thau nước này.

Biết mình lầm lạc, làm trái ý Ðức Phật, Vương tử vội phái quan đại thần đến thỉnh Tôn giả Bàn Ðặc.

Khi tới nơi, Bàn Ðặc vào lãnh thọ sự cúng dường. Ðức Phật bảo Tôn giả A Nan gắp thức ăn để vào bát Bàn Ðặc. Thấy vậy Bàn Ðặc lấy làm mừng rỡ liền đứng dậy một lúc lâu, đúng ra việc này ông phải chờ lệnh của Ðức Phật, bởi vì đem so thì Tôn giả A Nan xuất gia sớm hơn Tôn giả Bàn Ðặc.

Tôn giả Bàn Ðặc ngồi cách xa Ðức Phật nên việc đem bình bát đến bên Ðức Phật khi ăn xong không phải là chuyện dễ, nhưng bình bát của Tôn giả Bàn Ðặc vẫn được đưa đến đây trước sự ngạc nhiên của mọi người. Ðó là nhờ sức oai thần của Ðức Phật mà đại chúng không được biết.

Thấy vậy, Vương tử Kỳ Vực vội chắp tay đến quỳ trước Tôn giả Bàn Ðặc mà thành tâm sám hối.

Thuở trước Tôn giả Bàn Ðặc vốn ngu dốt, có thể là tâm ông không bền vững. Mặc dù bị người đời chê cười, biếm nhã, nhưng ông vẫn không thối chí, nản lòng, mà quyết chuyên đọc hai tiếng "Chổi Quét" suốt sáu năm dài, để rồi ông được thức tỉnh, tâm không còn rối loạn, đi đến Giác Ngộ và chứng Thánh quả. Từ đó về sau tâm trí phát sanh rộng lớn, ông thấu hiểu nhiều đạo lý mầu nhiệm, lãnh hội nhiều pháp ngữ sâu xa của Ðức Phật.

Những người trước kia khinh thường, chê biếm ông sẽ thay ông tiêu tai nạn. Bấy giờ không còn một ai dám cười chê ông nữa mà lại càng kính trọng hơn.

Có một lần Tôn giả Bàn Ðặc cùng 499 vị Ðại để tử theo Ðức Phật đến cung Long Vương A Nậu Ðạt nhận sự cúng dường. Khi đến bờ ao A Nậu Ðạt, Ðức Phật bảo hàng đệ tử:

- Này các thầyTỳ kheo! Mỗi vị hãy múc lấy nước tám công đức ở trong ao mà uống. Sau đó các vị có thể biết được việc đời trước của mình.

Khi hàng đệ tử thực hành xong, Ðức Phật tiếp:

Bây giờ các vị hãy thuật lại kiếp đời trước của chính mình nghe ra sao.

- Vâng lời Phật dạy, Bàn Ðặc liền tự thuật:

- Kính lạy Ðức Thế Tôn! Thưa toàn thể đại chúng: Ðời trước con là một người nuôi heo. Một hôm con lùa heo đến chợ bán. Ði được nửa đường thì bị một con sông cản lối, vì muốn đem heo đến chợ sớm nên con không thể dừng lại đó. Con giải quyết bằng cách cột chân heo lại và lấy vải buộc mỏ chúng để khỏi la ồn. Xong xuôi, con cầm dây từ từ kéo bầy heo qua sông. Khi con sang được bờ bên kia thì bầy heo bị ngộp thở mà chết cả. Vốn liếng con bị tiêu tan từ đó. Cuộc sống của con trở nên khổ sở, lắm lúc như điên dại, thường đứng ở bờ sông ngơ ngác không tìm ra lẽ sống. May gặp được một vị cao Tăng rộng lòng thương xót, Ngài khuyên con xuất gia tu học. Sau khi bỏ thân ấy con được sanh lên cõi Trời. Lúc hưởng hết phước ở cõi Trời rồi mới trở xuống nhân gian làm người.

Do vì kiếp trước buộc mỏ heo kéo sang sông làm tổn hại rất nhiều sanh mạng nên kiếp này con mắc quả báo ngu dốt. May nhờ kiếp trước có nhân duyên xuất gia nên đời này con được gặp Phật độ, chứng quả vị A La Hán.