Tìm kiếm Blog này

Thứ Sáu, 16 tháng 3, 2012

Thờ Thì Dễ, Giữ Lễ Thì Khó !


 


Thành ngữ Việt Nam có câu: “Thờ thì dễ, giữ lễ thì khó”, chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu đề tài ý nghĩa và tác dụng của lễ bái.
Trước hết, chúng ta phải hiểu thế nào là lễ? Thế nào là lễ bái?
Lễ, theo Tự điển Tiếng Việt của viện ngôn ngữ học Việt Nam, là phép tắc phải tuân theo khi thờ cúng tổ tiên, quỷ thần, hoặc giao tế trong xã hội. Nói một cách rộng rãi dễ hiểu hơn, đây là những quy tắc nhất định của cung cách, đi đứng, nói năng trong Quan, Hôn, Tang, Tế, nhằm thể hiện sự cung kính và bao gồm cả những phép lịch sự chào hỏi nhau để biểu lộ sự thân thiện quen biết. Nó còn là một phương tiện đặc biệt để gây tình cảm. Người dưới gặp người trên mà không biết chào hỏi là thiếu lễ độ. Người trên không biết đáp lại lời chào của người dưới, thường bị mang tiếng là hách dịch, khinh người.
Bái là sự cung kính biểu hiện ở thân tướng, nghĩa là quỳ lạy, bằng cách hạ mình xuống trước những bậc Hiền đức mà mình tôn kính. Lễ bái tiếng Phạn là Vandana, Tàu dịch âm là Ban-đàm, còn gọi là Hòa nam, hoặc gọi là Na-mô Tất-yết-la. Có nghĩa là ý tôn kính biểu hiện ra ở thân tướng, là lễ nghi cung cách với hình thức cúi đầu quỳ lạy trước những bậc tiền nhân, Thánh đức mà mình đã đặt trọn niềm tin quy ngưỡng hướng về, như lạy chư Phật, chư Hiền Thánh, như lạy tổ tiên, cha mẹ, thầy tổ v.v...
Lễ bái là một đạo nghĩa nhằm tiêu biểu cho ý chí tôn kính, để tỏ lòng tri ân và báo ân ngõ hầu trở thành những con người hữu ích trong xã hội, để làm tròn bổn phận của con cháu tông môn và để xứng đáng là đệ tử các bậc Thánh đức. Lễ bái còn là một phương pháp tu để diệt trừ lòng ngã mạn cống cao, diệt trừ những phiền não, nghiệp chướng.
Lễ bái là một nghi thức tín ngưỡng thường thấy ở một số tín ngưỡng tôn giáo phương Đông. Khởi nguyên, lễ bái biểu thị sự phục tùng, tôn kính tuyệt đối với các uy lực siêu nhiên, đấng thần linh mà con người tôn thờ. Dần dần, tùy theo sự phát triển của mỗi tôn giáo mà có những ý nghĩa khác nhau trong cách thức lễ bái. Ở đây, chúng tôi không thể so sánh hết tất cả các hình thái nghi lễ mà chỉ giới hạn tìm hiểu cách thức lễ bái của Khổng giáo và Phật giáo mà thôi.
Theo truyền thống Việt Nam, dân tộc ta phần đông chịu ảnh hưởng sâu đậm văn hóa Khổng giáo và Phật giáo. Do đó, mỗi người dân đều chịu ảnh hưởng không ít cách lễ bái của hai tôn giáo này. Thời xưa vua chúa đã quy định rõ ràng, mỗi người dân khi lễ bái vua, quan, hiền thần, đình miếu thì phải áp dụng theo cung cách của Khổng giáo và khi lễ bái Phật trời, Hiền thánh, Tổ tiên, ông bà v.v… thì phải áp dụng theo cung cách của Phật giáo.
Cách lạy của Khổng giáo, trước hết con người phải đứng thẳng là tiêu biểu cho cái uy của kẻ sĩ. Hai tay cung thủ là tiêu biểu cho cái dũng của Thánh nhân. Trước khi lạy, hai tay cung thủ đưa lên trán, kế đưa sang phải, rồi đưa phía trái là tiêu biểu cho Tam tài (Trời, Đất và Người). Khi lạy, hai tay cung thủ chống lên đầu gối chân mặt và quỳ chân trái xuống trước là tiêu biểu cho sự tôn kính mà không mất tư thế cái uy dũng của kẻ sĩ. Cúi đầu xuống đất là tiêu biểu cho sự cung kính những bậc mà mình đảnh lễ. Đó là cung cách và ý nghĩa tổng quát lễ bái theo quan niệm của Khổng giáo.
Lễ bái theo quan niệm của Phật giáo có phần khác biệt về cung cách cũng như về ý nghĩa so với Khổng giáo. Riêng về ý nghĩa và giá trị lễ bái được rất nhiều kinh luận đề cập đến. Phật giáo quan niệm, vì sự sùng kính ân đức vô lượng, trí tuệ vô biên của chư Phật mà hàng Phật tử đã biểu lộ sự thành kính ấy qua hình thức lễ bái và noi theo gương sáng của chư Phật, chư Hiền thánh để phát triển hạnh lành, tiến tu đạo nghiệp đạt được trí tuệ giải thoát như các Ngài. Trong nhân quả của sự tôn kính thì “kính thầy sẽ được làm thầy”.
Sự lễ bái cũng là phương pháp tu để diệt trừ sự cống cao, ngã mạn – bản chất con người chúng ta lúc nào cũng luôn tự cao tự đắc, vênh váo nghênh ngang, xem “cái tôi” của mình là trung tâm vũ trụ. Đó là tánh xấu khiến mọi người chán, xa lánh làm tiêu mòn công đức. Chúng ta ý thức được điều này, vì tự mình thấy mình không sánh kịp các Ngài, biết mình thấp kém tài đức nên phải kính lạy Phật, Bồ-tát và các bậc tôn túc để diệt trừ tâm ngã mạn thì tự nhiên tánh ngạo mạn từ từ biến mất. Ngoài ra, lễ bái còn là pháp hành căn bản mà người con Phật phải hành trì tinh tấn để giải thoát các nghiệp chướng mà chúng ta đã gây tạo từ nhiều đời nhiều kiếp. Trong Phật giáo, có nhiều cách lễ bái.
Theo sách Đại Đường Tây Vực Ký, quyển 2, ghi rằng: Ấn Độ có chín cách lễ bái được gọi là “Tây Trúc cửu nghi”. Chín cách lễ bái đó như sau:
1. Phát ngôn úy vấn lễ: Mở lời thưa hỏi.
2. Phủ thủ thi kính lễ: Cúi đầu biểu thị sự cung kính.
3. Cử thủ cao ấp lễ: Đưa tay cao vái chào.
4. Hiệp chưởng bình cung lễ: Chắp tay ngang vái chào.
5. Khuất tất lễ: cúi gập đầu gối.
6. Trường quy lễ: Quỳ nằm dài ra.
7. Thủ tất cứ địa lễ: Tay và gối quỳ sát.
8. Ngũ luân câu khuất lễ: Năm vóc co lại.
9. Ngũ thể đầu địa lễ: Năm vóc gieo xuống đất.
Trong kinh Pháp Hoa, chúng ta thấy có một đoạn miêu tả về những cách lễ trên:
“Hoặc có người lễ bái
Có người chỉ chấp tay
Cho đến giơ một tay
Có người lại cúi đầu
Để cúng dường tượng Phật
Sẽ thấy Phật vô lượng
Tự thành đạo Vô thượng”.
Ngoài chín cách lạy trên đây, người Ấn Độ còn có nhiều cách lễ bái khác nhau, tùy theo phong tục của mỗi nơi mà có sự khác biệt với nhau về cung cách như: Lễ bái đứng một chân quỳ lạy (Tồn cử lễ); bước một bước lễ một lạy (Khởi cư lễ); lễ một lạy rồi đi nhiễu ba vòng về phía bên hữu của Phật hoặc bảo tháp (Hữu nhiễu tam thất lễ); lễ bằng cách ngồi cúi đầu lạy (Tạ lễ). Riêng về Phật giáo Việt Nam, phần đông Phật tử đều áp dụng theo phương pháp Ngũ thể đầu địa (năm vóc sát đất) trong khi lễ bái. Đây là một phương pháp tiêu biểu cho tâm ý tôn kính cao đẹp nhất trong các cung cách lễ bái. Khi lễ bái, đầu tiên Phật tử phải đứng ngay thẳng trước tượng Phật cho trang nghiêm và khép hai chân vào nhau để lấy lại sự an tâm thanh tịnh, đồng thời kiểm thúc tâm ý không để chao động vọng tưởng. Ngay lúc đó, đôi mắt nhìn lên tượng Phật, quán tưởng các tướng tốt và quán niệm những đức hạnh cao quý của đức Phật, bày tỏ nguyện vọng chân chính của mình hầu mong Phật chứng minh. Hai tay chắp lại là biểu thị thân tâm hiệp nhất để nói lên sự nhất tâm cung kính của mình và để hai tay trước ngực là tiêu biểu ý nghĩa Ấn tâm. Chắp tay đưa lên giữa chặng mày (cử án tề mi) thể hiện sự cung kính và tiêu biểu cho ý nghĩa tâm nguyện của mình được dung thông đến chư Phật, rồi xướng câu: “Năng lễ sở lễ tánh không tịch, cảm ứng đạo giao nan từ nghì, ngã thử đạo tràng như đế châu, thập phương chư Phật ảnh hiện trung...” và lạy theo nguyên tắc Ngũ thể đầu địa - “Đầu diện tiếp túc quy mạng lễ”. Ngửa lòng bàn tay ra giống như đóa hoa sen nở, ta tưởng tượng như đức Phật đang đứng trên đóa sen kết thành bởi hai bàn tay và ta đặt trán mình lên lòng bàn chân của đức Phật, đồng thời nằm mọp xuống để biểu thị sự cung kính tâm thành quy ngưỡng, nương tựa.
Phật giáo cho rằng, người Phật tử ngoài sự lễ bái chư Phật, chư Bồ-tát, chư Hiền Thánh Tăng ra còn phải tưởng niệm ân đức cao dày của các Ngài và phát nguyện suốt đời hướng về các Ngài để tiến tu đạo nghiệp, nên được gọi là quy mạng lễ.
Trong kinh Tăng Nhất A Hàm, đức Phật dạy:
“Thiện Nghiệp đã lễ trước
Đầu tiên không lỗi lầm
Cửa giải thoát trống không
Đây là nghĩa lễ Phật
Nếu người muốn lễ Phật
Vị lai và quá khứ
Nên quán pháp trống
không
Đây là nghĩa lễ Phật.”
Nhân thừa Phật giáo chia lễ bái ra làm 7 cách lạy. Bảy cách lạy này do ngài Tam tạng Pháp sư Lặc Na phân chia ra, trong sách Pháp Uyển Châu Lâm có nói rõ về nguyên nhân và hoàn cảnh vì sao phải chia ra 7 cách lạy này:
1. Ngã mạn lễ: Nghĩa là lạy với tâm ngã mạn, tâm kiêu căng. Người lạy Phật hoặc lạy ông bà, tổ tiên vì hoàn cảnh bắt buộc phải hành lễ, nhưng thâm tâm của họ không muốn lạy, do đó họ lạy với cử chỉ ngạo nghễ, thái độ kiêu căng, không chút nào lễ độ cung kính cả. Hoặc có người cậy thế ỷ quyền cao chức trọng, thẹn khi chào hỏi người kém hơn mình, tâm không dựa vào phép tắc lễ nghi. Tuy có lễ bái nhưng tâm chạy theo ngoại cảnh. Đầu họ lạy không sát đất và họ đứng lên cẩu thả cho qua chuyện. Họ sợ mất thể diện với bạn bè và sợ dơ bẩn quần, nên buộc lòng phải lễ bái theo kiểu Ngã mạn để bạn bè khỏi chê trách mình là kẻ bất hiếu, bất nghĩa, bất trung, bất tín. Cách lạy đó gọi là Ngã mạn lễ.
2. Cầu danh lễ: Nghĩa là lạy xướng họa cầu danh. Những người lạy vì mong cầu danh vọng, quyền tước qua sự chú ý và ngợi khen của cấp trên, cũng như lấy lòng quần chúng để được ủng hộ; khi có cấp trên cũng như có đông người thì họ siêng năng lễ lạy để cho mọi người khen mình là người siêng năng có đạo đức. Thật ra thâm tâm của họ không có chút gì tín thành cả; oai nghi thô vụn, thân tâm cung kính dối trá. Thấy người thì thân nhẹ lạy mau, người đi thì thân tâm mệt mỏi, biếng nhác giải đãi trong việc lễ lạy. Cách lạy này gọi là Cầu danh lễ.
(Hai cách lạy vừa trình bày trên là hành động dối trá, không thể có nơi người đạo đức chân chánh. Sở dĩ Pháp sư Lặc Na nêu ra là nhằm mục đích ngăn ngừa chúng ta).
3. Thân tâm cung kính lễ: Nghĩa là người lễ lạy phải thể hiện thân và tâm đều cung kính. Do thân tâm cung kính không nghĩ đến việc khác, kính cẩn cúng dường tình không chán đủ. Lễ lạy bằng sự tha thiết chí thành cả thân và tâm vì họ có đức tin trong sự lễ lạy nên sự cảm ứng của họ rất dễ dàng giao cảm với chư Phật, với Thánh hiền, với ông bà Tổ tiên. Thân tâm cung kính là cách lạy cơ bản trong Phật giáo về mặt sự tướng, hay nói cách khác về mặt hình thức mà người xuất gia và tại gia phải hành trì nghiêm túc.
Thân tâm cung kính lễ, công đức tuy lớn nhưng thật sự chưa phải là mục đích cứu cánh trong lễ bái. Thân tâm cung kính lễ chỉ là phương tiện nhờ đó mà hành giả tiếp tục tiến đến lãnh vực Thánh giáo lễ của các bậc Thánh chúng về mặt lý tánh không cảm thấy trở ngại.
4. Phát trí thanh tịnh lễ: Lạy phát trí thanh tịnh, nghĩa là hành giả tu tập thiền quán cho đến khi trí tuệ thanh tịnh phát sanh từ nơi chơn tâm là Thánh trí, chứ không phải trí tuệ phát sanh từ thức tâm. Trí tuệ phát sanh từ thức tâm thuộc về nơi mà phàm trí còn bị giới hạn bởi căn và trần. Trái lại, Thánh trí đã thoát ra vòng cương tỏa của cả hai. Trong phép lạy này, hành giả phải thấu suốt rằng: cảnh giới của chư Phật đều hiện bày từ nơi chân tâm và trí tuệ thanh tịnh của mình cũng phát sanh từ bản tâm thanh tịnh. Cho nên người lễ bái một đức Phật tức là lạy tất cả chư Phật trong mười phương không ngăn ngại. Lạy một lạy tức là lạy tất cả pháp giới, vì Pháp thân của Phật dung thông.
5. Biến nhập pháp giới lễ: Lạy khắp vào pháp giới. Nghĩa là trong phép lạy này, hành giả phải tận dụng trí tuệ tự quán thân, tâm cùng tất cả pháp giới, từ hồi nào đến giờ không rời pháp giới. Pháp giới tánh tức là thể tánh của vạn pháp biến mãn khắp thế giới và thường trụ bất diệt. Pháp giới tánh là nơi chư Phật thường an trụ để hiện thân hóa độ chúng sanh. Hành giả thực hiện phép lạy này là quán chiếu thân và tâm nơi chính mình biến nhập vào pháp giới tánh của vạn pháp một cách dung thông, giống như bác sĩ sử dụng quang tuyến X (X-ray) rất lớn chiếu vào thân thể con người và năng lượng quang tuyến X thấu suốt xuyên qua thân thể người không chút ngăn ngại. Đó mới là lạy theo phương pháp Biến nhập pháp giới lễ.
6. Chánh quán lễ: Lạy chánh quán nghĩa là quán chiếu Phật tự tâm của chính mình không duyên cảnh khác. Trong phép quán này, hành giả lễ lạy đức Phật ngay nơi tự tâm của mình, chứ không duyên đức Phật nào khác, vì tất cả chúng sanh từ xưa đến nay, đều sẵn có Phật tánh viên mãn, bình đẳng, chân giác.
7. Thật tướng bình đẳng lễ: Lạy thật tướng bình đẳng nghĩa là trong phép lễ này, hành giả dùng trí tuệ quán chiếu thật tướng của vạn pháp đều thể hiện một cách bình đẳng, không sai biệt. Không có nhân ngã bỉ thử, tức là người lễ bái không thấy mình lạy và người để cho mình lạy. Nói một cách khác, người thực hành phép lễ này là dùng trí tuệ quán chiếu thật tướng vạn pháp để nhận thấy rằng: mình và người, thể và dụng, phàm và thánh thảy đều vắng lặng không hai (đều nhất như). Bồ-tát Văn Thù dạy rằng: “Năng lễ sở lễ tánh không tịch”, nghĩa là thể tánh của mình đang lạy và thể tánh của người để mình lạy thảy đều vắng lặng và bình đẳng.
(Bốn cách lạy: Phát trí thanh tịnh, Biến nhập pháp giới, Chánh quán và Thật tướng bình đẳng là những pháp môn thuộc về lý lễ bái của các bậc Đại thừa Bồ-tát thường tu tập để thể nhập vào pháp giới tánh của chư Phật).
Qua những phương cách lễ bái trên đây, chúng ta thấy Thân tâm cung kính lễ chính là pháp môn quan trọng, là điều kiện tất yếu của người hiếu nghĩa, tín tâm để tỏ bày lòng tri ân và báo ân. Thân tâm cung kính lễ là phương tiện cần thiết để làm gạch nối giữa chư Phật và tâm linh con người qua sự nguyện cầu gia hộ. Phương pháp lễ lạy này lại còn là nền tảng căn bản của chúng ta trên con đường tiến tu đạo nghiệp để được chứng ngộ qua bốn cách lễ của Thánh giáo. Vậy chúng ta nên cố gắng thực hành cho đúng pháp.
Ngoài ra, chúng ta có thể tham khảo pháp thực tập ba cách lạy trong sách Thiền Môn Nhật Tụng năm 2000, do Đạo Tràng Mai Thôn biên tập. Chúng tôi xin phép lược trích về ba cách lạy trong sách ấy.
Lạy thứ nhất: Năm vóc sát đất, con tiếp xúc với Tổ tiên và con cháu của con trong hai dòng tâm linh và huyết thống. (chuông, lạy xuống) Con có Tổ tiên tâm linh của con là Bụt, các vị Bồ-tát và các vị Tổ sư qua các thời đại, trong đó có các bậc sư trưởng của con đã qua đời hay còn tại thế. Các vị đang có mặt trong con, các vị đã truyền trao cho con những hạt giống bình an, trí tuệ, tình thương và hạnh phúc nhờ liệt vị mà con có được một ít vốn liếng của an lạc, tuệ giác và từ bi... Tổ tiên tâm linh và Tổ tiên huyết thống của con cũng như con cháu tâm linh và huyết thống của con, đều đang có mặt trong con. Con là họ, họ là con, con không có một cái ta riêng biệt; tất cả đều có mặt trong một dòng sinh mệnh đang diễn biến mầu nhiệm.
Lạy thứ hai: Năm vóc sát đất, con tiếp xúc với mọi người và mọi người đang có mặt với con giờ này trong sự sống. (chuông, lạy xuống) Con thấy con là sự sống mầu nhiệm đang dàn trải trong không gian. Con thấy con liên hệ mật thiết tới mọi người và mọi loài; tất cả những hạnh phúc và khổ đau của mọi người và mọi loài là những hạnh phúc và khổ đau của chính con... Con thấy con trong tất cả các vị và tất cả các vị trong con.
Lạy thứ ba: Con buông bỏ hình hài và thọ mạng. (chuông, lạy xuống) Con thấy được thân tứ đại này không đích thực là con, con không bị giới hạn trong hình hài này. Con là tất cả dòng sinh mạng tâm linh và huyết thống từ ngàn xưa liên tục diễn biến tới ngàn sau...
Ở trên, chúng ta đã tìm hiểu sơ qua ý nghĩa của sự lễ bái, còn tác dụng và lợi ích của lễ lạy thì thế nào?
Tác dụng và lợi ích của sự lễ lạy xét về phương diện y học: Khi khấu đầu làm lễ, toàn bộ các chi trong cơ thể đều vận động, lại thêm vào sự chuyên chú về tinh thần tình cảm, động tác khoan thai, không những có thể giải tỏa sự căng thẳng tinh thần mà còn có thể làm cho gân cốt thả lỏng, máu huyết lưu thông. Trong khi làm lễ, tâm ý chân thành, ý thức và động tác đều theo chỉ dẫn của tâm linh, tất cả những cái đó đều có lợi cho sức khỏe và có tác dụng phòng trừ tật bệnh.
Tác dụng và lợi ích của sự lễ bái trong kinh điển: đức Phật đã chỉ giáo rất rõ ràng. Kinh Tăng Nhất A Hàm, quyển 24 có ghi: Cung kính lễ Phật sẽ được 5 phần công đức:
1. Đoan chánh: Nghĩa là người lễ bái, thường chiêm ngưỡng dung nhan và tướng hảo của đức Phật liền khởi niệm hoan hỉ và phát tâm mơ ước mong cầu. Nhờ nhân duyên đó, họ qua kiếp sau có thể hưởng được tướng mạo đoan trang tốt đẹp (Ngũ trược chúng sanh linh ly cấu, đồng chứng Như Lai tịnh Pháp thân).
2. Hảo thinh: Nghĩa là người lễ bái xưng tụng hồng danh của chư Phật. Nhờ nhân duyên đó đời sau họ sẽ được tiếng nói lảnh lót trong trẻo tốt đẹp (Niệm Phật nhứt thanh, phước tăng vô lượng. Lễ Phật nhứt bái tội diệt hà sa).
3. Đa tài bảo: Nghĩa là người lễ bái thường dâng hoa, đốt đèn v.v... để cúng dường các đức Như Lai. Nhờ nhân duyên đó đời sau hưởng nhiều tiền của vật báu.
4. Sanh Trưởng giả gia: Người lễ bái đem tâm không chấp trước, chắp tay, quỳ gối, chí thành lễ Phật. Nhờ nhân duyên đó, đời sau họ được sanh vào nhà giàu sang, quý tộc.
5. Sanh Thiện xứ thiên thượng: Nghĩa là nhờ công đức lễ bái các đức Như Lai, người lễ bái sẽ được sanh vào các cõi lành, hoặc các cõi Trời.
Tóm lại, lễ bái không phải là hành động thấp hèn làm mất phẩm cách con người, gợi lên dấu ấn phong kiến. Trái lại, lễ bái chính là một đạo nghĩa, một nghĩa cử rất cao đẹp của những người sống có văn hóa. Đối với tổ tiên, người hiếu hạnh cần phải lễ bái để tỏ lòng cung kính. Đối với Thánh hiền, tín đồ chân chánh cần phải lễ bái để thể hiện đức tính khiêm cung trong tu tập đạo lý Giác ngộ. Lễ bái nhằm giao cảm với bề trên và tạo nên chất liệu để xóa bỏ mọi dị biệt ngăn cách chia rẽ trong đoàn thể. Lễ bái tạo ra sự lễ phép và thân thiện không chia rẽ nhằm thêm bạn bớt thù tạo ra một xã hội thanh bình an lạc.
Trong xu thế hướng về cội nguồn văn hóa dân tộc, chúng ta nên phát huy truyền thống lễ bái vì đây là những thuần phong mỹ tục. Lễ bái là tinh hoa, là nét đẹp trong đời sống sinh hoạt văn hóa tâm linh. Khi xa quê, khi tuổi cao tác lớn, khi có người thân qua đời chừng ấy chúng ta sẽ thấy việc lễ bái với những động tác quỳ xuống, đứng thẳng lưng, rồi quỳ xuống là cần thiết biết dường nào! Nó thay cho những lời nói, những lời phát biểu, những cảm tưởng dông dài, đây gọi là tấm lòng thành của mình.
Lễ bái có ý nghĩa là báo ơn, tạ ơn với cung cách quy ngưỡng hướng về, cũng như noi gương đức hạnh cao quý và ý chí siêu thoát của các bậc tôn kính để tu tập. Người lễ bái mong cầu sau này kế thừa xứng đáng sự nghiệp của tiền nhân trên con đường giác ngộ khổ đau sanh tử. Lễ bái là một nét đẹp văn hóa có ý nghĩa giáo dục sâu sắc, cho nên trong mỗi người Phật tử không thể thiếu nghĩa vụ với nghi cách lễ bái cao đẹp này.
 Nam Mô A Di Đà Phật

Chủ Nhật, 5 tháng 2, 2012

Phật Giáo Và Vận Mệnh - Đại Sư Tinh Vân (Phước Tâm dịch)



Trong đời của mỗi một con người chúng ta, việc đáng quan tâm nhất, hẳn là chính mình; mà trong vấn đề chính mình, quan trọng hơn cả chính là vận mệnh, số phận hay số kiếp. Về cách nhìn vận mệnh, có người cảm thấy rằng bất cứ việc gì của mình cũng không bằng người ta, vận mệnh lận đận éo le, liền giận trời trách người; có người thì tin rằng tất cả họa phước giàu nghèo đều là do sự sắp đặt của số phận, vì vậy khi gặp phải những khó khăn thì chỉ biết cam chịu số phận; có người thì lại bằng lòng với số phận, vì thế họ không còn lo sợ gì cả, đối với những khó khăn khốn đốn trong cuộc sống, thì lại an bần thủ tiết.
Trong lữ trình của sinh mệnh, có rất nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng đến vận mệnh của chúng ta, như sự kỳ vọng của phụ mẫu sư trưởng, hay thái độ cừu địch thân hữu. Việc vận dụng tiền tài vật chất, cố nhiên có thể chi phối sự phát triển tiền đồ- con đường phía trước của chúng ta. Một câu nói. Một ý nghĩ. Tất cả đều có thể làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời của chúng ta.
Phật giáo cho rằng sự li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng: “Muốn biết nhân kiếp trước, hãy xem những gì mình đang chịu đời này; muốn biết quả kiếp sau, hãy xem những việc làm của mình ở đời này”. Do vậy, có thể suy luận: Tất cả cảnh giới thuận nghịch mà đời này gặp phải, là do những tạo tác của hành vi quá khứ mà hình thành, đây chính là quả báo của đời này; nhưng mà, nhất ngôn nhất hành của đời này, lại là quyết định vận mệnh vị lai của mình. Cho nên, vận mệnh của chúng ta tùy theo nghiệp lực thay đổi trong từng phút giây, đồng thời không bị quản chế bởi một chủ tể đặc định nào, thống trị, chi phối vận mệnh của con người vẫn là chính mình.
Những nhân tố ảnh hưởng đến vận mệnh được quy kết như sau:
Thứ nhất, tập quán: Phật giáo cho rằng phiền não đã là thứ khó đoạn tuyệt, nhưng lại có một thứ càng khó khử trừ hơn đó là tập khí (1). Tập quán (thói quen) vốn là mô thức cố định trong đời sống của chúng ta, có tốt có xấu, nhưng mà sau khi trải qua một thời gian dài, thói quen trở thành tự nhiên, thì sẽ biến thành tập khí thâm căn cố đế, đời đời kiếp kiếp khó mà tiêu trừ. Vì vậy, đối với sự dưỡng thành thói quen, cần phải cẩn thận.
Thói quen xấu gồm như hút thuốc, hít độc (tiêm chích ma túy), nát rượu, v.v… những thói quen không lành mạnh này có khả năng tàn phá, làm tổn hại đến thân thể, sức khỏe; hay như nói dối, lạm tình, kiên tham (bủn xỉn, tham lam), v.v…, cũng có khả năng làm bại hoại đến đạo đức của chính mình. Thói quen tốt gồm như chế độ làm việc và nghỉ ngơi bình thường, ăn uống, vận động, tinh thần lạc quan, v.v…, có thể kéo dài tuổi thọ; hay như cần cù, gọn gàng sạch sẽ, sốt sắng nhiệt tình, v.v…, có thể tự lợi lợi người. Phật giáo khởi xướng tín đồ nuôi dưỡng thói quen đọc tụng kinh (2), từ đó có thể nương tựa Phật pháp dẫn dắt qua khỏi bến mê; cũng như dưỡng thành thói quen niệm Phật (3), thì có thể nương Phật hiệu khơi gợi Phật tính trong tâm mà vãng sinh Tịnh độ, siêu việt sinh tử. Tóm lại, một người mặc dù có điều kiện ưu việt được trời ưu ái, mà thói quen không tốt, cũng khó có vận mệnh đại phú đại quý. Thói quen tốt cũng là một trợ duyên, có thể giúp chúng ta biến nguy thành an, thuận buồn xuôi gió.
Thứ hai, mê tín: Nhiều người thích coi số đoán mệnh, mục đích không ngoài hy vọng mọi việc của mình được như ý muốn, gặp hung hóa kiết, gặp dữ hóa lành. Có người khăng khăng giữ quan niệm chọn bạn trăm năm phải phối hợp Bát tự (4), có người thì chú trọng việc cất nhà sản xuất phải xem phong thủy, lại có người thậm chí mọi việc cầu thần coi bói, không cần phán đoán, nhận định theo lý tính.
Hành vi mê tính, bắt nguồn từ sự thiếu vắng niềm tin, có lúc ngược lại, do vậy mà đánh mất đi những cơ hội tốt hoặc bóp méo sự thật, vô tình chôn vùi hạnh phúc của một đời. Phật giáo cho rằng ngày ngày đều là những ngày tốt đẹp, giờ giờ đều là những giờ tốt đẹp, chỉ cần phù hợp chính lý nhân quả, thì không có gì đáng cữ kiêng.
Thứ ba, tình ái: Gọi là “Ái bất trọng bất sinh Sa bà” (tình yêu vắng mặt chấp thủ, tất sẽ không sinh ở chốn Sa-bà), con người tất nhiên thì là có tình cảm, nhưng có một số người cứ vì quá chấp vào tình yêu, để rồi đánh mất lý trí, thậm chí có người vì tình ái mà tự tạo ra những hố sâu bi tình không thể nào bù đắp lại. Do vì, tình yêu không được xử lý một cách thỏa đáng, thường hay nảy sinh những phiền muộn khổ đau, cho nên Phật giáo khuyên dạy con người nên lấy trí hóa giải tình yêu, lấy từ làm nên tình yêu, có thể thăng hoa tình yêu thành từ bi, như thế mới có thể không tự làm khổ mình, cũng không làm phiền lòng người khác.
Thứ tư, quyền lực: Sự chi phối của quyền lực là do quá cưng chiều ngã chấp (5) và ngã mạn (6), khiến cho con người dưỡng thành ý thức giai cấp tôn ti, quý hèn. Có người tự ti quá độ, cam tâm chịu khuất phục quyền lực, không cầu tự chủ, một đời thấp hèn, ti tiện; có người thì danh lợi lòng dạ hiểm độc, cầu mong quyền lực, không từ một thủ đoạn nào, đánh mất lý tính. Mà Phật giáo thì cho rằng chúng sinh bình đẳng, mọi người đều có Phật tính, bần phú quý tiện thật sự là ở chỗ hữu- vô của đạo đức; chúng ta nên có sự nhận biết và đảm đương trách nhiệm “Ta là Phật” (7), tin tưởng sự kiến lập nắm bắt vận mệnh ngay chính bản thân mình.
Thứ năm, nghiệp lực: Phật giáo cho rằng nghiệp lực (8) là sức mạnh lớn nhất có khả năng khống chế vận mệnh. Nghiệp lực là các hành động thân, khẩu và ý của mỗi một người, nó có sức ảnh hưởng đến đời sống vị lai. Nhiều người than thở thời vận của mình không tốt, hoặc oán trách việc người không có lợi cho bản thân, không nghĩ rằng phàm bất cứ việc gì cũng đều do nghiệp lực tạo thành, thành công cố nhiên là ở mình, nhưng việc phối hợp hoàn cảnh bên ngoài, càng không thể xem nhẹ; những thất bại, sai trái tuy đã qua, nhưng cũng nên nhìn lại để phản quan tự tỉnh: Phước ít đức bạc, sao có thể đạt được việc tốt được? Phật giáo chủ trương “Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo”, lúc bình thường nếu có thể quảng kết thiện duyên, sám hối nghiệp chướng, thì chắc chắn có thể hóa giải ác duyên túc thế, khai sáng tiền đồ tốt đẹp trong tương lai.
Tập quán, mê tín, tình ái, quyền lực và nghiệp lực, làm việc thiện làm việc ác đều quyết định ở ý niệm của chúng ta, sửa đổi vận mệnh cũng cần bắt đầu tịnh hóa từ tâm niệm của chúng ta. Nay dùng các phương pháp cụ thể thay đổi vận mệnh được quy nạp như sau:
Thứ nhất, thay đổi quan niệm: Quan niệm ảnh hưởng đến phán đoán giá trị của một con người, quyết định thú hướng thiện ác của hành vi. Phật giáo chú trọng sự dưỡng thành chính tri chính kiến. Gọi là “Chính tri chính kiến” chính là những kiến giải và quan niệm chính xác. Phật giáo cho rằng chính kiến cơ bản của đời người (nhân sinh) có bốn: Chính kiến có nhân có quả, chính kiến có nghiệp có báo, chính kiến có thánh có phàm, chính kiến có thiện có ác. Đã có nhân sinh quan chính xác, có niềm tin sâu sắc vào nhân quả, rõ biết duyên khởi, thì tự nhiên sẽ không khởi ác tạo nghiệp, oán trời trách người.
Thứ hai, thay đổi hành vi: Tục ngữ nói: “Muốn thu hoạch như thế nào, thì trước gieo trồng xuống những hạt giống như thế đó”. Nghiệp nhân mà từ hành vi của mỗi một người tạo tác, một khi nhân duyên tế hội gặp gỡ thì tự nhiên sẽ sản sinh quả báo, cho nên chúng ta hy vọng tiền đồ tương lai tốt đẹp, cuộc sống phú lạc (giàu sang và vui vẻ), thì cần phải bắt đầu từ hành vi của chính mình, để mong chuyển họa thành phước, bởi vì tất cả hạnh và bất hạnh, đều có thể thao túng, khống chế trong tầm tay của mình.
Thứ ba, quảng kết thiện duyên: Vũ trụ vạn pháp, từ nhân đến quả, trung gian còn phải cần có lực lượng hữu duyên, thì quả mới có thể sinh thành. Một đời của con người, có người thì thông minh trí tuệ, năng lực rất tốt, nhưng trái lại người đó không nhất định sẽ được gặt hái nhiều thành quả mỹ mãn; có người tư chất bình thường, không có gì nổi bật, nhưng trái lại phàm gặp việc gì cũng suông sẽ thuận lợi, đâu đâu cũng được sự tương trợ của người hữu duyên. Vì vậy, chúng ta cần chú trọng đến “Quảng kết thiện duyên”. Kết duyên là một việc làm tốt đẹp nhất trên thế gian này, đặc biệt sinh mệnh không chỉ một đời, người có khả năng lấy Phật pháp kết duyên, thì đời đời kiếp kiếp đều có thể đi theo các bậc thiện trí thức học tập, tự nhiên vận mệnh thông đạt, ứng nhân xử thế vô ngại.
Thứ tư, trì giới thủ pháp: Giới (9) là căn bản của tất cả thiện pháp, giới có thể phòng phi chỉ ác, gọi là “Họa phước vô môn, duy nhân tự chiêu”, hành thiện tất được thiện báo, hành ác tất gặp ác quả, người trì giới thì tuân theo giới luật (thủ pháp), trong hành vi sẽ không phạm vào nghiệp nhân bất hảo, tự nhiên sẽ không gây nên quả báo xấu. Vì vậy, kinh điển tỉ dụ: “Giới như lương sư, giới như quỹ đạo, giới như thành lũy, giới như túi nước, giới như ngọn đèn sáng, giới như bảo kiếm, giới như chuỗi ngọc, giới như thuyền bè”. Trì giới thủ pháp có thể ngăn chặn ác duyên, tự nhiên sẽ có tiền đồ sáng lạn, nhân sinh mỹ mãn.
Phật giáo đối với vận mệnh của một đời con người có cách nhìn tích cực lạc quan, chủ trương các pháp vô thường, duyên khởi tính không (10), vận mệnh xấu có thể dựa vào thiện duyên bồi dưỡng tiến hành thay đổi, dù cho nghiệp chướng nặng nề, cũng có thể giảm nhẹ, gọi là trọng nghiệp khinh báo (11). Con người không nên buồn rầu với số mệnh không tốt của mình, mà cần cố gắng vượt lên, thay đổi vận rủi ấy; cho nên con người không thể phó thác cho trời đất hay mặc cho số mệnh, ủ rũ chán chường, để năm tháng luống qua một cách vô ích, cần có quyết đoán, dứt khoát thay đổi triệt để, tạo dựng nên vận mệnh của chính mình. Vì vậy, cho dù sống trong giàu sang thuận đạt, hoặc là nghèo nàn khổ ách, đều nên chính quán duyên khởi, hiểu rõ vận mệnh, thay đổi vận mệnh, từ đó lập nên vận mệnh mới, tốt đẹp hơn.

Trích dịch từ sách “Phật giáo & Thế tục”(佛教世俗) in trong bộ sách “Phật học giáo khoa thư” (佛學教科書) của Đại sư Tinh Vân (星雲), do NXB. Từ Thư Thượng Hải xuất bản, năm 2008, tr.7-10...
CHÚ THÍCH:
(1) Tập khí chỉ tư tưởng hoặc hành vi thường sinh khởi của chúng ta, huân tập lâu ngày thành chủng tử, tồn tại trong thức A-lại-da, tùy sinh tử luân hồi mà trình hiện trong thể sinh mệnh mới như hình theo bóng.
(2) Kinh là chỉ cho giáo pháp mà Phật-đà trình bày, kinh nói: “Nếu chỗ nào có kinh điển, tức chỗ đó có Phật”. Vì vậy bái kinh, tụng kinh, chép kinh, đọc kinh đều có công đức mở mang trí tuệ. Phật giáo coi trọng văn- tư- tu, nghĩa lý kinh Phật thâm áo, cần nghe nhiều huân tập, tư duy pháp nghĩa, đã có sở đắc, càng nên y lý thực hành trong đời sống, mới có thể được nhiều lợi ích chân chính.
(3) Thông thường mà nói, việc quyết định thú hướng vãng sinh có ba loại: Một, tùy trọng nghiệp đã tạo mà thọ báo; hai, tùy tập khí bình thường thọ báo; ba, tùy nhất niệm lúc lâm chung thọ báo. Kinh A-di-đà nói: “Nếu có người nghe nói đến Phật A-di-đà, chấp trì danh hiệu, ví như một ngày hoặc đến bảy ngày nhất tâm bất loạn, thì người đó lúc sắp lâm chung, Phật A-di-đà cùng chư thánh chúng hiện ngay trước mặt người ấy người lúc lâm chung tâm không điên đảo, tức được vãng sinh quốc độ Cực lạc Phật A-di-đà”. Người niệm Phật thuần thục, tùy thời có thể lấy Phật niệm thay cho tạp niệm, bất luận là tùy tập hay tùy niệm, đều có thể quyết định vãng sinh Tịnh độ.
(4) Bát tự = Tám chữ (giờ ngày tháng năm sinh viết theo Thiên can và Địa chi) là cách xem số mệnh của Trung Quốc. Người mê tín cho rằng giờ, ngày, tháng, năm con người được sinh ra đều bị Thiên can Địa chi chi phối; mỗi hạng có hai chữ thay thế, bốn hạng thì có tám chữ, căn cứ tám chữ này, tức có thể suy đoán vận mệnh/sinh mệnh của một con người. Tục xưa lúc đính hôn, trước phải trao đổi Thiếp tám chữ, cũng gọi “Canh thiếp”, hoặc gọi đơn giản là “Bát tự”.
(5) Chính là chấp trước tự ngã tồn tại chân thật, rồi sinh khởi tâm luyến ái, tham thủ. Thể nguyên của chúng sinh là giả hợp của ngũ ấm. Nếu vọng chấp có sự tồn tại của cái tôi thực thể chi phối ảnh hưởng, mà nảy sinh phân biệt vọng tưởng như “ngã” (tôi) và “ngã sở” (những cái của tôi), tức gọi là ngã chấp. Thành duy thức luận thuật ký ghi, phẩm loại phiền não chướng có rất nhiều, lấy ngã chấp làm gốc, sinh khởi các phiền não; nếu không chấp vào cái tôi, thì phiền não tự dưng biến mất.
(6) Chính là tâm kiêu mạn, tự cho mình tài giỏi hơn người khác, rồi sinh khởi tâm lý khinh thường người khác.
(7) Lời này có nguồn gốc từ công án Thiền tông. Thiền sư Linh Huấn hỏi Thiền sư Quy Tông: “Cái gì là Phật?” Quy Tông: “Nói với ông, ông cũng không tin”. “Ông chính là Phật”. Ý là bất kỳ người nào cũng đều có Phật tính, chỉ cần khẳng khái đảm nhận, thì đều có thể thành Phật làm Tổ. Xem Tinh Vân Thiền ngữ tứ: Bạn chính là Phật.
(8) Các hoạt động thân tâm như hành vi, ý chí, gọi là “Nghiệp”. Sức ảnh hưởng tiếp nối những việc làm sau đó của chúng ta gọi là “Nghiệp lực”. Phật giáo lấy tư tưởng của nghiệp dùng để biểu đạt thiện ác của hành vi và mối quan hệ qua lại của khổ lạc nhân quả báo ứng, cho đến các nguyên lý luân hồi như kiếp trước, kiếp này và kiếp sau. Thông thường mà nói, nghiệp được chia làm ba nghiệp là thân, ngữ và ý, nếu tạo nghiệp thiện ác, thì sau đó chiêu cảm quả báo (dị thục) khổ lạc tương ứng. Do có nghiệp nhân, nên chiêu cảm nghiệp quả; nghiệp vô ký phi thiện phi ác thì không có năng lực chiêu quả. Nghiệp có nhiều chủng loại, y một đời chúng sinh thọ báo có thể phân làm Dẫn nghiệp (lại gọi là tổng báo, chi phối nghiệp lực của chúng ta sinh ở nhân giới, súc sinh giới hoặc các giới khác) và Mãn nghiệp (còn gọi là biệt báo, nghiệp lực viên mãn của các căn chúng sinh, hình lượng, sắc lực, v.v…) Theo sự dị đồng thọ báo giữa chúng sinh với chúng sinh, có thể chia ra cộng nghiệp (khiến chúng sinh cảm được nghiệp quả báo chung, như sơn hà đại địa, bối cảnh gia đình,…tức sự tương đồng của hoàn cảnh bên ngoài) và bất cộng nghiệp (nghiệp báo bất đồng của chúng sinh ở trong hoàn cảnh giống nhau, như cùng sinh ra từ trong một gia đình, nhưng họa phước không giống nhau). Tùy sự nhanh chậm của thời gian thọ báo, nghiệp còn phân làm Thuận hiện nghiệp (tức hiện tại làm việc thì ngay hiện tại phải nhận quả báo), Thuận sinh nghiệp (tức đời này làm việc, đời sau nhận quả báo), và Thuận hậu nghiệp (đến sau đời thứ ba mới bắt đầu thọ báo)…
(9) Giới pháp Phật giáo bao hàm tất cả hành vi quy phạm thế gian, có các loại sau: Thông giới (các việc ác chớ làm, các việc thiện cần thực hành) và Biệt giới (giới luật được phân biệt chế định trong Tăng đoàn thất chúng, còn có thể chia làm tại gia giới và xuất gia giới); Chỉ trì giới (ngăn cấm điều ác) và Tác trì giới (hành thiện); Tính giới (các giới đối với những hành vi tội ác mà lập nên, như không giết mổ, không trộm cắp…) và Già giới (dù hành vi phi thiện phi ác, nhưng trái lại dễ dàng nảy sinh cơ hiềm/hiềm khích hoặc gợi ra giới pháp hành vi tội ác); Thanh văn giới (lấy tự luật- tự ràng buộc hạn chế làm giới pháp chính, như “Ngũ phần luật”) và Bồ-tát giới (lấy lợi tha làm giới pháp chính, nội dung hàm nhiếp luật nghi giới, nhiếp thiện pháp giới, nhiêu ích hữu tình giới); Giới tại gia (như ngũ giới, bát quan trai giới…) và xuất gia giới (như Tỳ-kheo giới, Sa-di giới…).
(10) Phật giáo chủ trương các pháp do nhân duyên sinh, các pháp cũng do nhân duyên mà diệt, vạn sự vạn vật đều là duyên sinh mà tụ, duyên diệt thì tan, vì vậy không có tự tính, bản chất là không, cho nên nói duyên khởi tính không.
(11) Phật giáo cho rằng tội lỗi hay nghiệp chướng có sâu nặng, cũng có thể thông qua sám hối sửa đổi, nuôi trồng phước đức để giảm nhẹ. Tỉ như một nắm muối, mặn chát không thể nào nuốt được, nếu như dùng nước pha loãng đi, thì vị mặn chát ấy tự nhiên đổi sẽ thành nhạt loãng.

Sớ Cúng Dược Sư


Phục Dĩ:
Điều phúc, thọ mọi người tiếp đón.
Chuyện tai ương, ai nấy mong qua.
Vì nghiệp duyên nên cầu nguyện Đại Tướng Dược Xoa.
Muốn an lạc phải đảo kỳ Đông Phương Giáo Chủ.
Duyên nay có tại nước Việt Nam ……………………………………………………………………………....................................................................................................................................................................................................
Chúng con chí kính đan thành, sám hối tụng kinh, nguyện Đông Phương Giáo Chủ Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, cùng chư vị Bồ tát, chư Thánh Hiền chúng hộ trì cho :          …………………………………………………....................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
Được thân tâm an lạc, gia đình hưởng chữ yên vui.
Trăm bệnh kíp tiêu trừ, nghìn phiền mau tuyết giải.
Thiết nghĩ:
Chúng con mang thân tứ đại, rước lấy tam tai.
Hoặc uống ăn không giữ mực điều hòa, để tạng phủ hóa ra bất phục.
Hoặc nắng gió coi thường nên cảm mạo, khiến bốn đại khó chuyện vận hành.
Đây ngũ phong tướng hiện khổ đôi phen.
Nọ cửu hoạnh đáo lâm sầu khắp ngã.
Lòng chỉ mong mọi ách nạn băng tiêu.
Trí những ước các duyên lành nhóm họp.
Nên hôm nay:
Ngày lành tháng tốt, sửa lễ cúng dường, thiết lập y Kinh.
Ngoài treo năm sắc tràng phan.
Trong bày thất Tôn Thánh tượng.
Đèn tuệ đăng bốn chín ngọn lung linh.
Hoa ưu bát bốn chín bông ngào ngạt.
Kinh khai nhứt hội, Đàn lập bảy khu.
Lại thỉnh chư Tăng chúng họp tại (chùa này)............................., phúng tụng Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức.
Nay có Sớ văn giải bày trước án:
Kính dâng:
Nam Mô Đông Phương Giáo Chủ Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật kim liên tọa hạ.
Nam Mô Đông Phương Hải Hội chư vị Bồ tát hồng liên tọa hạ.
 Nam Mô Thập Nhị Dược Xoa Đại Tướng vị tiền gia hộ.
Những mong:
Trượng chú lực cho báo thân mạnh khỏe.
Nhờ kinh văn cả quyến thuộc khoan hòa.
Bọn ác ma theo tiếng mõ quy y.
Mọi tà chướng nghe tiếng chuông các tán.
Khắp thế giới hòa bình an lạc, hành đạo từ bi.
Trong quốc gia hưng vượng phú cường, phát tâm dũng lực.
Lại nguyện:
Người hiện sống gội ân quang khang thái.
Khách mãn phần nhờ hiệu lực siêu sinh.
Tâm hương khẩn nguyện chư Phật chứng minh.
Bày tỏ lòng thành, sớ văn đại tấu.
Sớ tuyên tại …………………………………....................... ngày ……………tháng……………năm……………..
Đệ tử chúng con chí thành trăm lạy dâng sớ