Tìm kiếm Blog này

Thứ Hai, 12 tháng 3, 2018

Những Bài Kinh Nói Về Chữ Hiếu

Hiếu kính Cha Mẹ là một truyền thống rất tốt đẹp và lâu đời của dân tộc Việt Nam chúng taTruyền thống đó từ xa xưa đã được giữ vững và trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, cho đến ngày nay.
Đức Phật từng dạy rằng, săn sóc người ốm cũng như săn sóc Đức Phật. Nếu người ốm đó lại chính là Cha Mẹ chúng ta, thì sự săn sóc phải ân cần chu đáo gấp trăm ngàn lần. Đáng tiếc rằng, ở thế gian, người ta thường không làm được như vậy. Cha Mẹ già, đau ốm thưòng bị con cháu bỏ rơiChúng ta là Phật Tửchúng ta tuyệt đối không được làm thế bởi vì làm thế không những trái với đạo lý thông thường của thế gian mà cũng trái với lời Đức Phật dạy.
Trong đạo Phậtvấn đề hiếu đạo được đề cập trong nhiều kinh tạng Pali của Phật giáo nguyên thủy và Hán tạng của hệ phái Bắc tông như: kinh Trường Bộkinh A Hàm, kinh Báo Ânkinh Vu Lan Bồn, kinh Hiếu Tử, kinh Tâm Địa Quán…
Ở đây, chúng tôi sưu tập lại một số ít trong rất nhiều pháp thoại đức Phật thuyết về công ơn cha mẹ và cách thức đáp đền của con cái đối với cha mẹ hầu chia sẻ cùng đọc giả.
 
1. Đức Phật dạy :
" Hiếu với Mẹ Cha tức là kính Phật ."
Nếu ở đời không có Phật thì hãy khéo thờ cha mẹ. Khéo phụng thờ Cha mẹ như phụng thờ Phật vậy (Kinh Đại Tập)
 
2. Đức Phật dạy ân đức cha mẹ có 10 điều :
a . ân giữ gìn mang thai trong 9 tháng .
b . ân sinh sản khổ sở
c . ân sinh rồi quên lo
d . ân nuốt đắng nhổ ngọt
e . ân nhường khô nằm ướt
g . ân bú mớm nuôi nấng
h . ân tắm rửa chăm sóc
i . ân xa cách thương nhớ
k. ân vì con làm ác
l. ân thương mến trọn đời . (Kinh Báo Ân Cha Mẹ)
 
3. “Hiếu thuận đối với cha mẹSư trưởngchư Tăng, đối với Tam bảo - sự hiếu thuậnphù hợp chánh pháp chí thượng, sự hiếu thuận ấy gọi là giới, cũng gọi là năng lực chế ngựđình chỉ mọi sự tội lỗi”. Cho nên đạo Phật còn gọi là Đạo Hiếu. (Kinh Phạm Võng)
 
4. Vai trái cõng cha , vai phải cõng mẹ , cắt da đến xương , nghiền xương thấu tuỷ , máu đổ thịt rơi cũng không đáp được công ơn cha mẹ
Giả như có ai gặp lúc đói khát , phá hoại thân thể , cung phụng cha mẹ cũng không đáp được công ơn cha mẹ .
Vì cha mẹ mà trăm kiếp nghìn đời , đâm tròng con mắt , cắt hết tâm can, trăm nghìn dao sắc xuất nhập toàn thâncũng không trả nỗi công ơn cha mẹ .
Dù vì cha mẹ , đốt thân làm đèn cúng dường chư Phật cũng không đáp được công ơncha mẹ . (Kinh Báo Ân Cha Mẹ)
 
5. “Cùng tột điều thiện không gì hơn hiếu
Cùng tột điều ác không gì hơn bất hiếu”. (Kinh Nhẫn Nhục)
 
6. Vui thay hiếu kính mẹ
Vui thay hiếu kính cha
Vui thay kính Sa môn
Kính bậc thánh vui thay (Kinh Pháp Cú)
 
7. "Phạm Thiên, này các Tỳ kheo, là đồng nghĩa với Mẹ Cha; các Đạo sư ngày xưa, này các Tỳ kheo, là đồng nghĩa vói Mẹ Cha, đáng được cúng dường, này các Tỳ kheo, là đồng nghĩa với Mẹ Cha. Vì cớ sao? Giúp đỡ rất nhiều, này các Tỳ kheo là Mẹ Cha đối với con cái, nuôi chúng lớn, dưỡng dục chúng, giới thiệu chúng vào đời"(Tăng Chi I, 147).
 
8. “Mẹ hiền còn sống là mặt trời giữa trưa chói sáng
Mẹ hiền khuất bóng là mặt trời đã lặn
Mẹ hiền còn sống là mặt trăng sáng tỏ
Mẹ hiền khuất rồi là đêm tối âm u.” (Kinh Tâm Địa Quán)
 
9. “Từ vô lượng kiếp đến naychúng sanh lang thang trong nẻo luân hồi, bỏ thân này nhận thân khác, sinh đi sinh lại bao lần, sữa mẹ mà chúng ta đã uống còn nhiều hơn nước trong bốn biển”. (Kinh Tương Ưng)
 
10. Nầy các Tỳ kheo! Những gia đình nào có con cái kính dưỡng cha mẹ thì những gia đình ấy được chấp nhận ngang bằng với phạm thiên, được chấ nhận như ngang bằng với bậc Đạo sư, đáng được kính trong và cúng dường (Tăng Chi Bộ)
 
11. “Ta trải qua nhiều kiếp tu hành thành đạo là nhờ công ơn của cha mẹ nuôi dưỡng”. (Kinh Phân biệt)
 
12. “Này các tỳ kheo! Có hai người mà các thầy không thể nào đền ơn cho hết được, đó là cha và mẹ. Nếu có kẻ vai trái cõng cha, vai phải cõng mẹ, đi xa ngàn dặm, cung phụng đủ mọi thức ăn, đồ mặc, chăn nệm và thuốc thang, thậm chí cha mẹ có tiểu tiện, đại tiện trên vai đi nữa, cũng chưa trả được ân sâu cha mẹ. Các thầy phải biết, ân cha mẹ nặng lắm, bồng bế nuôi nấng, dưỡng dục đúng lúc, làm cho ta trưởng thành. Vì thế, mà biết ân đó khó trả. Do vậy, người con hiếu thảo muốn báo đáp công ơn cha mẹ đúng chánh pháp cần phải thực hành những việc sau đây:
– Nếu cha mẹ chưa có niềm tin, phải khuyết khích cha mẹ phát tâm tin tưởng tam bảo.
– Nếu cha mẹ xan tham, phải khuyết khích cha mẹ phát tâm bố thí.
– Nếu cha mẹ theo điều ác, phải khuyết khích cha mẹ hướng về đường thiện.
– Nếu cha mẹ theo tà kiến, phải khuyết khích cha mẹ trở về với chánh kiến.
Làm được như vậy là trả ơn cha mẹ đúng với chánh pháp, khiến cha mẹ không những được an vui trong hiện tại, mà còn gieo phước lành trong tương lai”. (Kinh Tăng Nhất A Hàm)
 
13. “- Cung kính và vâng lời cha mẹ.
– Phụng dưỡng khi cha mẹ già yếu.
– Giữ gìn thanh danh truyền thống gia đình.
– Bảo vệ tài sản cha mẹ để lại.
– Lo tang lễ chu đáo khi cha mẹ qua đời”. (Kinh Trường Bộ)
 
14. “Vô thỉ là luân hồi. Này các tỳ kheo, không dễ gì tìm được một chúng sanh trong một thời gian dài này lại không một lần nào làm mẹ, làm cha”. (Kinh Tương Ưng)
 
15. “Tất cả người nam là cha ta , tất cả người nữ là mẹ ta . Bao nhiêu đời kiếp ta từ đó mà sanh ra , nên chúng sanh trong sáu đường là cha mẹ của ta cả”. (Kinh Phạm Võng)
 
16. “ Này các Thầy Tỳ Kheo! Nếu người nào biết ơn và đền ơn cho dù ở cách xa Ta ngàn dặm , nhưng ta vẫn xem người đó như đứng hầu gần bên Ta. Còn nếu như người nào không biết ơn và đền ơn, cho dù người đó có đứng hầu gần bên Ta nhưng Ta vẫn xem họ cách xa ngàn dặm”. (Kinh Tăng Nhất A Hàm)
 
17. “ Nếu có người muốn được vua Phạm Thiên ở trong nhà, hãy hiếu dưỡng cha mẹ, vua Phạm Thiên đã có ở trong nhà. Muốn có Đế Thích ở trong nhà, hãy hiếu dưỡng cha mẹĐế Thích sẵn ở trong nhà. Muốn được tất cả thiên thần ở trong nhà , chỉ cúng dường cha mẹ, tất cả thiên thần đều ở trong nhà. Cho đến muốn cúng dường Thánh Hiền và Phật, chỉ cúng dường cha mẹ, các vị Thánh Hiền và Phật đều ở trong nhà”. (Kinh Tạp Bảo Tạng)
 
18. “ Phật hỏi các Thầy Sa môn: Con nuôi cha mẹ, lấy cam lồ trăm vị làm thức ăn, dùng thiên nhạc làm vui tai, sắm y phục hảo hạng mặc nơi thân, vai cõng cha mẹ đi khắp bốn phương, suốt đời phụng dưỡng như vậy, đáng gọi là hiếu chăng?
Các Thầy Sa môn thưa: Người này là đại hiếu.
Phật dạy: Chưa gọi là hiếu.
Phật bảo các Thầy Sa-môn: Xem người thế gian không có hiếu thảo, chỉ thế này mới gọi là hiếu: Hãy khuyên cha mẹ bỏ ác làm lành, thọ Tam quy giữ Ngũ giới. Dù cha mẹsớm mai thọ trì quy giới, chiều về cõi chết, đối với ơn nặng cha mẹ nuôi dưỡng, cũng gọi tạm đền”. (Kinh Hiếu Tử)
19. “Có hai hạng người, này các Tỳ Kheo, Ta nói không thể trả ơn được. Thế nào là hai. Là Mẹ và Cha. Nếu một bên vai cõng cha, một bên vai cõng mẹ, làm vậy cho đến trăm tuổi, nếu đấm bóp, thoa nước tắm rửa, thoa gội, và dầu tại đấy có vãi tiểu tiện, đại tiện như thế, này các Tỳ Kheo cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ mẹ và cha. Vì cớ sao? Vì rằng, này các Tỳ Kheocha mẹ đã làm nhiều cho con cái, nuôi nấng, nuôi dưỡng con khôn lớn, giới thiệu con vào đời”. (Kinh Tăng Chi I)
 
20. “Làm con đối với cha mẹ đem chút lễ mọn cúng dường thì được phước vô lượngtrái lại làm ít điều bất thiện đối với cha mẹ tội cũng vô lượng”. (Kinh Tạp Bảo Tạng)
 
21. “Thế Tôn lấy một ít đất để trên đầu ngón tay rồi hỏi các Thầy Tỳ Kheo, đất trên đầu ngón tay Ta nhiều hay đất trên quả địa cầu này nhiều?
- Bạch Đức Thế Tôn! Đất trên đầu ngón tay Như Lai so với đất trên quả địa cầu thì quá ít.
- Cũng vậy, này các Tỳ Kheo, những chúng sanh hiếu kính với cha mẹ thì quá ít, như đất trên đầu ngón tay của Ta, còn những chúng sanh không hiếu kính với cha mẹ lại quá nhiều như đất trên địa cầu”. (Kinh Tương Ưng)
 
22. “Những đứa con bất hiếu, sau khi chết bị đọa vào địa ngục A tỳ, lửa dữ thiêu đốt, ăn hoàn sắt nóng, uống nước đồng sôi, gươm đao đâm chém…. ngày đêm chết sốngmuôn lần, đến trăm ngàn kiếp không ngừng một giây, sự hình phạt tại A tỳ ngục, rất nặng nề ngỗ nghịch song thân”. (Kinh Báo Hiếu)
 
23. “Ta trong nhiều kiếp quá khứ, nhờ từ tâm hiếu thuậncúng dường cha mẹ, do công đức đó, nên sinh lên các từng trời thời làm Thiên đế, xuống nhân gian thì làm Thánh Vương”. (Kinh Hiền Ngu)
 
24. “Thuở Phật còn tại thế có một vị chư Thiên đến hỏi: “Bạch Đức Thế Tôn, làm sao để có được vận may?”
Phật đáp:
“ Phụng dưỡng cha và mẹ là vận may tối thượng”. (Kinh Hạnh Phúc)
 
25. “Thờ trời đất quỷ thần không bằng có hiếu với cha mẹ, vì cha mẹ là hai vị thần minhcao nhất trong các thần minh”. (Kinh Tứ Thập Nhị Chương)
 
26. “Hiếu hạnh đứng đầu trăm hạnh tốt. Hiếu cảm đến trời thì mưa hòa gió thuận, hiếu cảm đến đất thì muôn vật hóa sinh, hiếu cảm đến người thì mọi phúc tăngtrưởng”. (Khế kinh)
 
27. “Ơn cha lành như núi Thái, nghĩa mẹ hiền sâu hơn biển cả. Nếu ta ở trong đời một kiếp, nói công ơn cha mẹ không thể hết”. (Kinh Tâm Địa Quán)
 
28. “Cha mẹ tại tiền như Phật tại thế , gặp thời không có Phật, khéo thờ cha mẹ tức là thờ Phật vậy” (Kinh Tâm Địa Quán)
 
29. "Ở đây, này Mahànàma, vị thiện nam tử, với những tài sản do nổ lực tinh tấn thu hoạch được, do sức mạnh của cánh tay gom góp lại, phải trả bằng những giọt mồ hôi đổ ra, làm một cách hợp phápcung kínhtôn trọngđảnh lễcúng dường Cha Mẹ..." (Tăng Chi II, 106).
 
 30. “ Cha mẹ là Phạm Thiên
Bậc đạo sư đời trước
Xứng đáng được cúng dường
Vì thương đến cháu con
Do vậy bậc hiền trí
Đảnh lễ và tôn trọng
Dâng thức ăn nước uống
Vải mặc và giường nằm
Thoa bóp cùng tắm rửa
Với sở hành như vậy
Đời này người hiền khen
Đời sau hưởng Thiên lạc”. (Kinh Hạnh Phúc)
 
31. “ Thế Tôn lại bảo A Nan
Ơn cha nghĩa mẹ mười phần phải tin
Điều thứ nhất giữ gìn thai giáo
Mười tháng trường chu đáo mọi bề
Thứ hai sanh đẻ gớm ghê
Chịu đau chịu khổ mỏi mê trăm phần
Điều thứ ba thâm ân nuôi dưỡng
Cực đến đâu, bền vững chẳng lay
Thứ tư ăn đắng uống cay
Để dành bùi ngọt đủ đầy cho con
Điều thứ năm lại còn khi ngủ
Ướt mẹ nằm khô ráo phần con
Thứ sáu sú nước nhai cơm
Miễn con no ấm chẳng nhờm chẳng ghê
Điều thứ bảy không chê ô uế
Giặt đồ dơ của trẻ không phiền
Thứ tám chẳng nở chia riêng
Nếu con đi vắng cha phiền mẹ lo
Điều thứ chín miễn con sung sướng
Dầu phải mang nghiệp chướng cũng cam
Tính sao có lợi thì làm
Chẳng màng tội lỗi bị giam bị cầm
Điều thứ mười chẳng ham trao chuốt
Dành cho con các cuộc thanh nhàn
Thương con như ngọc như vàng
Ơn cha nghĩa mẹ sánh bằng Thái sơn”. (Kinh Báo Ân)
 
32. "Thế nào là lửa đáng cung kính? Ở đây, này Bà La Môn, những người Mẹ, những người Cha của người ấy. Này, Bà La Môn đáng gọi là lửa đáng cung kính" (Tăng Chi I, 74).
 
33. Nguời con hiếu thuận với Cha Mẹcung kínhtôn trọng, phụng dưỡng Cha Mẹ với của cải do chánh sức mình làm ra một cách hợp pháp, thì Cha Mẹ cũng thương mến lại người con, và nói về con mình với những lời tốt đẹp: "Mong rằng, nó được sống lâu! Mong rằng thọ mạng nó được che chở lâu dài!" (Tăng chi II, 106).
 
34. “Này các Tỳ Kheo, sữa mẹ mà các Thầy thọ nhận nơi người mẹ từ vô lượng kiếp đến nay còn nhiều hơn nước của đại dương. Quý Thầy nên biết sữa của người mẹ là những giọt máu kết tinh thành những dòng sữa ngọt truyền đạt qua cho con, mỗi ngày đứa con bụ bẫm lớn lên đã rút tỉa tàn phá thân hình của người mẹ khô gầy héo mòn, chết sớm cũng vì con”. (Kinh Tương Ưng)
 
35. “Người con nào giàu có mà không biết hiếu thảo phụng dưỡng cha mẹ đó là cửa ngõ đưa đến bại vong”. (Kinh Đại Vân)
 
36. “Người nào muốn báo ơn nghĩa to lớn cả cha mẹ, không có cách nào hơn là phát tâm Bồ đề cầu giác ngộ, rồi tìm cách hướng dẫn người thân của mình và chúng sanhđồng phát tâm Bồ đề, đó là cách báo ân rốt ráo”. (Kinh Phương Tiện Phật Báo Ân)
 
37. "Thờ Mẹ Cha đúng pháp,
Buôn bán đúng, thật thà,
Gia chủ không phóng dật,
Được sanh Tự Quang Thiên." (Kinh Tập, Sutta Nipata).
 
38. “Giữa các loài hai chân
Chánh giác là tối thắng
Trong các loài con cái
Hiếu thuận là tối thắng”. (Kinh Tăng Chi I)
 
39. "Này Dharanjàni, nhà người nghĩ thế nào? Một người vì Cha Mẹ, làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh, hay là một ngưòi vì Cha Mẹ, làm các điều đúng pháp, làm các điều chơn chánh, thì ai tốt đẹp hơn?” (Trung Bộ II)
 
40. “Cha mẹ là Phạm Thiên
Bậc đạo sư đời trước
Xứng đáng được cúng dường
Vì thương đến cháu con
Do vậy bậc hiền trí
Đảnh lễ và tôn trọng
Dâng thức ăn nước uống
Vải mặc và giường nằm
Thoa bóp cùng tắm rửa
Với sở hành như vậy
Đời này người hiền khen
Đời sau hưởng Thiên lạc”. (Kinh Tâm Địa Quán)
 
41. “Người con nào giàu có mà không biết hiếu thảo phụng dưỡng cha mẹ đó là cửa ngõ đưa đến bại vong”. (Kinh Tương Ưng)
 
42. “Người nào muốn báo ơn nghĩa to lớn cả cha mẹ, không có cách nào hơn là phát tâm Bồ đề cầu giác ngộ, rồi tìm cách hướng dẫn người thân của mình và chúng sanhđồng phát tâm Bồ đề, đó là cách báo ân rốt ráo”. (Kinh Đại Vân)
 
43. “Người con chí hiếu dù có gặp đại nạn như tai trời, ách nước, địa chấn… sẽ thoát hiểm một cách an toàn. Nếu giàu thì được hưởng trọn vẹn gia tài không bị nghịch cảnh, chướng duyên, nội nghịch ngoại thù, luật vua phép nước, trộm cướp mất mùa… Nếu nghèo thì đời sống trong sạch thanh nhàn, trời người yêu thươngdanh thơm xông khắp, không bị cảnh nợ nần khổ sở, ít bịnh tật, được tăng tuổi thọ… Sau khi chết đuợc sanh Thiên”. (Kinh Phương Tiện Phật Báo Ân)
 
Rất mong rằng tất cả chúng ta đều ghi lòng tạc dạ, luôn nhớ nghĩ đến ân nghĩa sinh thành sâu dày thâm trọng của cha mẹ để tìm cách đáp đền trong muôn một.

Thứ Ba, 17 tháng 1, 2017

LỄ VẬT CÚNG TẾ

Bấy giờ, tại thành Xá-Vệ, có Bà-la-môn Trường-Thân tổ chức đại hội cúng tế rất lớn, các lễ vật gồm bảy trăm con vật và các thức ăn thức uống cũng được chuẩn bị một cách đầy đủ. Thành phần tham dự gồm có dân chúng trong vùng, các viên chức sắc trong cả nước Xá-Vệ đến, đặc biệt hơn nữa là nhiều người từ các nước khác cũng sẽ đến dự kỳ đại hội cúng tế lớn lao này.
Bà-la-môn Trường-Thân nghe nói: “Có Sa-môn họ Cù-Đàm, là dòng dõi quí tộc, con Vua Tịnh-Phạn, bỏ địa vị quyền uy, xa lìa gia đình giàu sang phú quí, để đi học đạo và đã đắc bậc Chánh-Đẳng Chánh-Giác”.
Ông cũng nghe nói: “Sa-môn Cù-Đàm đang du hành trong nhân gian, vừa mới đến nước Xá-Vệ, hiện đang cư ngụ tại tịnh-xá Cấp-Cô-Độc, thuộc rừng Kỳ-Đà”.
Bà-la-môn Trường-Thân liền nghĩ: “Nay sẽ tổ chức đại hội cúng tế, ta nên đến hỏi nơi Sa-môn Cù-Đàm để cho sự tổ chức không bị thiếu sót”.
Suy nghĩ xong, ông liền ra lệnh chuẩn bị, rồi ông đi xe ngựa trắng, có các thanh niên trai tráng, kẻ trước người sau, cầm dù lọng cán vàng, rầm rộ ra khỏi thành Xá-Vệ, tiến đến rừng Kỳ-Đà với lòng ngưỡng mộ. Khi phái đoàn tới trước cổng Tịnh-xá, họ xuống xe đi bộ đến trước đức Phật, cung kính vái chào, Bà-la-môn Trường-Thân nói:
- Thưa ngài Cù-Đàm, tôi muốn tổ chức đại hội cúng tế với bảy trăm con vật gồm có trâu đực, trâu cái, trâu con, dê đực, dê cái, dê tơ, và các con vật nhỏ bé khác. Đủ bảy trăm con vật, hiện đang nhốt, trói, hoặc cột ở nơi các cây cột. Cũng xin thưa, đây là đại hội tế lễ lớn nên có đủ các thành phần trong nước và ngoài nước đến tham dự, tôi lại được nghe đức Cù-Đàm là người thấu suốt đạo lý về tế tự; bởi vậy nên tôi đến đây thưa hỏi Ngài về cách tổ chức đại hội cúng tế, những gì cần phải làm, các loại súc vật nào cần phải có, và số lượng súc vật cần thiết là bao nhiêu? Thưa đức Cù-Đàm: xin Ngài chỉ bảo, để cho buổi tổ chức của tôi không bị thiếu sót.
Sau khi nghe trình bầy, đức Phật bảo Bà-La-môn Trường-Thân:
- Vì có đại hội cúng tế, người chủ muốn thực hành tế lễ, bố thí, làm phước, mà lại sinh tội, bị đâm cắt bởi ba thứ đao kiếm, chuốc lấy qủa báo dữ; ba thứ đao kiếm là gì ? Là: ý đao kiếm, miệng đao kiếm, và thân đao kiếm.
Thế nào là ý đao kiếm sinh ra qủa báo khổ?
Người chủ tổ chức tế lễ suy nghĩ rằng: “Cúng-tế cần phải giết nhiều trâu, nhiều dê, và nhiều các con vật nhỏ bé khác, đó gọi là ý nghĩ đao kiếm sinh qủa báo khổ”; người chủ đại hội làm các việc tế-lễ, bố thí, cúng dường là những việc hợp đạo lý, nhưng thực ra lại sinh tội lỗi vì người ấy có ý nghĩ muốn giết các con vật.
Thế nào là miệng đao kiếm sinh ra khổ?
Người chủ tổ chức đại hội bảo: “Hôm nay ta tổ chức tế lễ, các ông hãy giết bấy nhiêu trâu, bấy nhiêu dê, và bấy nhiêu súc vật nhỏ, các ông không được làm sai khác”, đó gọi là từ miệng mà sinh ra đao kiếm, và sinh ra quả báo khổ; người chủ đại hội mặc dù làm các việc cúng tế, bố thí, cúng dường là những việc tốt, nhưng thật ra lại sinh thêm tội lỗi vì đã sai bảo người khác giết hại các con vật.
Thế nào là thân đao kiếm sinh ra khổ?
Người tổ chức đại hội, tự tay mình sát hại sanh mạng các con vật, đó gọi là thân đao kiếm sinh ra quả báo khổ. Người chủ đại hội mặc dù làm các việc cúng tế, bố thí, cúng dường là những việc tốt, nhưng thật ra lại sinh thêm tội lỗi vì đã tự tay mình giết hại súc vật.
Ngài giảng tiếp:
- Những người nào tùy thời cúng lễ, bố thí, cúng dường, phụng sự ba thứ lửa, sẽ đem lại sự an lạc, ba thứ lửa ấy là gì? Một là lửa căn bản, hai là lửa gia cư, ba là lửa phước điền.
Thế nào là lửa căn bản?
Người nào có được tiền của do việc làm cần khổ và chính đáng, rồi đem một phần biếu cha mẹ, làm cho cha mẹ được an vui; đó là lửa căn bản.
Thế nào là lửa gia cư?
Người nào có tiền của do sự làm việc thu hoạch hợp pháp, rồi đem cung cấp cho vợ con, anh em, quyến thuộc, người giúp việc, kẻ hầu hạ. Người ấy tùy lúc tùy thời mà chu cấp cho họ, và đem lại sự an vui cho người thân thuộc họ hàng; vì người ấy sống trong gia đình, cùng thân bằng quyến thuộc, nên vui cùng vui khổ cùng khổ chia ngọt sẻ (san sẻ) bùi; đó là lửa cư gia.
Thế nào là lửa phúc-điền?
Người làm việc siêng năng kiếm được tiền của do sự làm việc lao nhọc, và thu hoạch hợp pháp; người ấy tùy thời cúng dường các Sa-môn, Bà-la-môn biết khéo điều phục tham sân si, cũng tùy thời bố thí cho kẻ nghèo cùng, đói khát, bệnh khổ. Cúng dường bố thí như thế là kiến lập ruộng phúc, hiện tại an vui, vị lai được qủa báo tốt sinh lên cõi Trời, đó gọi là lửa phước-điền.
Nhưng người thiện nam trước khi tế lễ, cúng dàng, bố thí ba thứ lửa nêu trên, hãy nên dập tắt ba thứ lửa khác; đó là lửa tham lam, lửa sân hận, và lửa tà kiến ngu si, vì sao? Nếu lửa tham lam không dứt, thì sẽ tự hại mình, hại người, cả hai đều bị hại; hiện tại đắc tội, đời sau đắc tội, do lòng tham lam sinh ra đủ thứ ưu phiền khổ não. Lửa sân hận, lửa tà kiến ngu si cũng giống như thế.
Tóm lại, khi tổ chức đại hội tế lễ hay cúng giỗ không nên giết hại súc vật; cúng giỗ, tế lễ chỉ dùng các thứ như: “Hương nhang đèn, bông hoa, trái cây, bánh kẹo, và những thức ăn không phải là súc vật, không phải là chúng-sanh”. Như vậy là làm đúng theo đạo lý cúng lễ, và đem lại sự an vui cho mình, cho người và cho tất cả chúng-sanh (chúng-sanh trong 6 cõi gồm loài Trời, Thần Tiên Thánh, Người, Qủy Ma, Địa Ngục, và tất cả loài vật).
Sau khi nghe những lời giảng giải, Bà-la-môn Trường-Thân suy nghĩ trong giây phút, rồi quay qua bảo người con trai lớn:
- Uất-đa-La, con hãy đến chỗ các con vật, tất cả đều buông thả hết, và con nói với chúng rằng: “Bà-la-môn Trường-Thân cho phép các ngươi, sắp bị hy sinh tính mạng được tùy ý tự tại thênh thang ở núi ở đầm, ở rừng ở đồng hoang, hay bất cứ nơi đâu để tự kiếm thức ăn lấy, cỏ tươi tốt, nước suối trong, bốn bề gió mát, hưởng lạc thú an vui thoải mái”.
Rồi ông quay lại chắp tay nói :
- Thưa đức Cù-Đàm, con định lập đại hội tế lễ với đầy đủ bảy trăm con vật, nhưng nay con cho thả hết tất cả, để chúng được sống yên ổn, tự do đi lại. Thưa đức Cù-Đàm, con đã được Ngài cứu khỏi u mê tăm tối. Từ hôm nay cho đến hết đời, con xin quy y Ngài, quy y Pháp (lời dạy), quy y Tăng đoàn, và được làm Cư-sĩ trong Chính-Pháp của Ngài. Con sẽ tổ chức đại hội tế-lễ đúng theo như lời Ngài đã chỉ dạy, và cung thỉnh mời Ngài và Tăng-đoàn đến dùng cơm chay vào trưa ngày mai tại tư thất của con trong thành Xá-Vệ.
Bà-la-môn Trường-Thân: thấy đức Phật im lặng nhận lời, bèn lễ chào rồi cùng đoàn tuỳ tùng ra về chuẩn bị lại cho buổi tế lễ.
LỜI BÀN:

Hầu hết chúng ta không biết những tai hại xẩy ra giống như Bà-La-Môn Trường thân, nên khi tế lễ, cúng giỗ hay tết nhất thường lại giết súc vật nhiều hơn là lúc bình thường. Đọc xong bài “Lễ Vật Cúng Tế” này, người viết mong mỏi người đọc hãy suy nghĩ và áp dụng thì lợi lạc phúc đức không thể đo lường được. Nếu chúng ta không thể ăn chay được thì ít nhất mỗi khi tế lễ, giỗ tết, chúng ta không nên cúng bằng cách giết sinh vật để cúng. Chúng ta chỉ nên cúng bằng hương, hoa, quả, và thức ăn chay, việc này sẽ dẫn người hưởng sự cúng giỗ tế lễ theo đường lành.
Nên biết, sau khi chết, con người sẽ bắt buộc phải thọ sinh trong vòng 49 ngày, ngoại trừ người tu hành đạt đạo sẽ nhập Niết-Bàn an vui vĩnh cửu. Còn tất cả đều phải tuân theo luật luân hồi nhân qủa, dù muốn hay không muốn cũng phải thụ sinh vào một trong sáu cõi.
Nếu trong cuộc sống không tạo tội và làm các việc lành, sẽ được sinh lên cõi Trời; ở cõi Trời sung sướng mải hưởng thụ, đâu còn nhớ tới cõi trần hôi hám này nữa, nên có cúng các vị Trời cũng chẳng bao giờ màng tới, cúng cũng như không, ích gì; nếu cúng bằng cách giết sinh vật chỉ hại cho người cúng mà thôi.
Khi sinh vào cõi Thần, những vị này cũng có đời sống đầy đủ khá sung sướng, tuy phải làm việc cho các vị Thiên vương, nhưng không vất vả như con người. Các vị Thần có thể giúp chút ít, nhưng các vị ấy không giúp cho người làm ác, và không hưởng được nếu ta cúng tế bằng xác các con vật. Nếu ta cúng tế bằng hương, hoa, quả, và thức ăn chay, các vị ấy sẽ thọ hưởng được và sẽ hộ trì phần nào cho ta.
Nếu một người chết đi tái sinh trở lại cõi Người rồi, thử hỏi con cháu cúng có hưởng được gì không, chắc chắn là không hưởng được, phải không?; do đó nếu giết sinh vật để cúng giỗ, thì chính chúng ta mang tội giết sinh vật.
Khi một người chết đi sinh vào cõi Ma-Qủy, thường bị đói khát, vì cổ qúa nhỏ, ăn nuốt khó khăn. Đây chỉ là ăn tưởng tượng mà thôi, tức là chỉ tiếp xúc với vật thực. Nói là ăn, nhưng đâu có ăn như loài người bằng cắn, nhai, nuốt từng miếng, mà chỉ tiếp xúc vật thực, lưỡi, miệng, liếm, ngoạm nuốt tưởng tượng vật thực vào bụng, nhưng thực ra vật thực vẫn còn nguyên vẹn, mà Ma Qủy vẫn tưởng như có ăn, có hưởng vậy.
Nếu ta giết súc vật để cúng tế họ, ta mang tội, và tâm họ sẽ nhiễm cấu uế mà phải chìm xuống hơn ở kiếp sau hoặc vào Súc-sinh, hoặc vào Địa-ngục; còn nếu ta cúng bằng hương, hoa, quả và thức ăn chay, tâm họ sẽ nhẹ nhàng, sẽ được sinh làm Người, Thần, hoặc Trời.
Khi một người chết đi sinh vào cõi Súc-sanh cũng chẳng thể hưởng được gì khi ta cúng kiếng, vì đang là một con vật nào đó mà ta không biết; nếu ta giết súc vật để cúng, biết đâu rằng con vật bị hy sinh tính mạng đó chẳng phải là người mà ta cúng; thật là oan gia nếu đúng là như vậy, tốt hơn hết là tránh giết súc vật để cúng tế giỗ tết.
Khi một người chết đi bị đọa vào cõi Địa ngục rồi, cũng như bị cầm tù và bị hành hạ vô cùng khổ sở, người ấy không thể ra được mà về hưởng sự cúng kiếng; nếu giết súc vật để cúng người đó, tức là tạo nghiệp nặng thêm, chìm thêm và người đó sẽ phải ở Địa-nguc lâu dài hơn, mà ta cũng mang tội.
Tóm lại, nếu ta không ăn chay, đó là quyền tự do của ta, chứ không cúng giỗ tế lễ đồ mặn; vì nếu cúng đồ mặn xong ta ăn, sự làm ấy là vô minh, có hại cho các bậc tiền nhân mà ta cung kính lễ bái.
Một điểm nữa liên quan đến: sự đốt tiền giấy, vàng mã, chúng ta bị một số người mê tín, dị đoan lôi kéo dẫn dắt; vấn đề này cần đòi hỏi trí tuệ, có tâm bình tĩnh không sợ hãi mới dứt trừ bỏ được những điều vô lý. Đốt vàng mã, hình con này con kia, quần áo giấy, thậm chí cả đến đồ chơi bằng giấy; làm như vậy để làm gì? Những người làm các việc này nói rằng: “Để cho người chết dùng”. Nếu chúng ta tin ở Phật pháp thì không có chuyện linh hồn vưởng vất đâu đó, mà chỉ có cõi Ma-Qủy rõ ràng như vậy, Ma Qủy không dùng được các thứ ấy. Đây chỉ là sự tưởng tượng của một số người có tâm sợ hãi, tin bói toán mà ra, ta có làm cũng chỉ bằng thừa, phí tiền vô ích, và người trí tuệ nhìn vào sẽ chê cười là ta mê tín dị đoan nhảm nhí..,.