Tìm kiếm Blog này

Thứ Tư, 31 tháng 8, 2016

Kinh Kim Cang



Kinh Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận

TT. Thích Viên Giác dịch
Trung Tâm Phật Giáo Hayward, Hayward California 1996
o0o­­­o0o­­­
Lời Ban Biên Tập
Quyển Đại Thừa Kinh Kim Cang Luận này xuất hiện lần đầu tiên tại Việt Nam vào năm 1963. Sách ấn tống, không đề tên dịch giả và nhà xuất bản. Cho đến năm 1965 quyển “Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận” chính thức được Đại Đức Thích Viên Giác dịch tại Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang và ấn tống cùng năm đó. Sách được viết lời tựa bởi Sư Bà Thích Nữ Diệu Không. Năm 1983 sách được tái bản bởi Chùa Đức Viên, San Jose và đến năm 1996 được tái ấn tống bởi Trung Tâm Phật Giáo Hayward, Hayward California. Hai bản dịch có nội dung và cấu trúc trình bày tương tự, tuy lời văn có đôi chút khác. Thí dụ như trai lành gái tín nơi bản dịch năm 1963 thì bản dịch năm 1965 là người nam người nữ. Dưới đây là bản dịch năm 1963:
o0o­­­
Ta nghe như vầy, một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát , Thanh Văn, Thiên Long Bát Bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp. Khi bấy giờ, có vô số các vị mới phát tâm Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di đều nghĩ tưởng như vầy : Đức Phật nói pháp đại thừa, ý chúng ta không hiểu được, phải chi Đức Phật phương tiện chỉ dạy những chỗ cạn thấp dễ dàng, chúng ta nhờ đó được tỏ ngộ tri kiến của Phật và chứng đạo quả. Ý muốn thưa hỏi mà chẳng dám lại gần.
Bấy giờ Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi biết những tâm niệm của Bốn Chúng, nên phương tiện từ chỗ ngồi đứng dậy; đến trước Đức Phật mà bạch rằng : Xin Đức Thế Tôn mở lòng đại từ, lập những pháp phương tiện chỉ dạy cho những chúng sanh sơ cơ thấy tánh thành Phật, lại vì đời sau những chúng sanh mới bước vào nhà Phật, tìm học mối đạo đặng chánh tri kiến, không bị tà giáo phỉnh hoặc, không dụng công nhiều mà đặng thành đạo quả.
Đức Phật nói : Hay lắm! Hay lắm! Nầy Văn Thù Sư Lợi, ông có phương tiện lớn lao, thỉnh hỏi Như Lai chỉ dạy ba căn và con đường tu hành ngay thẳng cho chúng sanh đời sau mới vào cửa đạo, theo lời ông hỏi ta sẽ nói rõ. 
Trong đại chúng đều lặng yên để nghe Phật nói pháp.
Đức Phật bảo Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi : Có một pháp Đà la ni tên là Kim Cang tâm hay khiến chúng sanh một phen thấy, một phen nghe liền đặng đạo quả. Này gã trai lành!
Thế nào gọi là Kim Cang tâm ?
Tâm này người người vẫn có không kẻ nào không, nên cái tâm bình đẳng của chúng sanh này tự biết lấy, tự hiểu lấy.
Vì sao ? 
Hết thảy việc lành, việc dữ đều tại tâm mình sanh ra. Tâm mình tu việc lành, thân mình được an vui. Tâm mình tạo việc dữ thân mình chịu khốn khổ. Tâm là chủ của thân; thân là dụng của tâm.
Tại sao vậy ?
Bởi vì Đức Phật cũng do tâm thành,
Đạo do tâm học,
Đức do tâm chứa,
Công do tâm tu,
Phước do tâm ra,
Họa do tâm tạo.
Tâm làm ra thiên đường,
Tâm làm ra địa ngục,
Tâm làm ra Phật,
Tâm làm ra chúng sanh;
Nếu
Tâm chánh thì thành Phật,
Tâm tà thì thành ma, 
Tâm từ là người của Trời, 
Tâm ác là người của La Sát, 
Nên cái tâm là hột giống cho hết thảy sự tội phước.
Nếu người giác ngộ được tâm mình, hãy làm chủ giữ cho chắc chắn, không tạo các sự dữ, thường làm các việc lành, hành trì hạnh nguyện đều y theo Phật.
Phật nói : Người này không bao lâu sẽ được thành Phật; nếu có người trai lành, gái tín muốn cầu Phật đạo, mà không rõ được tâm của mình thì không thể thành Phật. Nếu có người người rõ được tâm, thấy được tánh, y theo Phật dạy tu hành, quyết định thành Phật, còn hơn công đức tụng ba mươi muôn biến Kinh Kim Cang cũng không sánh kịp.
Tại sao ?
Hết thảy các Đức Phật và các pháp A nậu đa la tam miệu tam bồ đề của Chư Phật đều tự nơi tâm mình phát sinh ra, vô cùng vô tận, không hư không lộn, nên gọi là ngộ Phật Tâm. Cho nên Phật cùng chúng sanh Tâm Tánh như nhau, tại người tu và không tu, tin cùng chẳng tin, nên có người làm Phật, có người làm chúng sanh.
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi bạch Phật : Sao gọi là Kinh Kim Cang?
Đức Thế Tôn nói :
Kim Cang là thí dụ Tánh của mình, 
Còn Kinh thì thí dụ Tâm của mình. 
Nếu người rõ Tâm mình, thấy Tánh mình, người này tự trong thân có Kinh, trên sáu Căn thường hiện ra hào quang sáng suốt, chói lòa trời đất, đầy đủ công đức như số cát sông Hằng, sanh ra tứ quả tứ tướng, thập thánh tam hiền nhẫn đến ba mươi hai tướng của Đức Như Lai và tám mươi việc tốt. Hết thảy công đức đều từ nơi mình, do Tâm địa mà ra chứ không phải tìm nơi ngoài mà được.
Tại sao ? 
Nếu có người minh tâm kiến tánh thường nghe Tâm Phật của mình, thường thường nói pháp, thường thường độ chúng sanh, thường thường hiện thần thông, thường thường làm việc Phật, hiểu được lý như vậy mới gọi là thọ trì Kinh Kim Cang, mới gọi là Kim cang bất hoại thân.
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật : Trong Kinh Kim Cang Đức Phật thường khen ngợi thọ trì bốn câu kệ v.v… giảng nói cho người khác nghe thì phước đức ấy còn hơn là phước đức đem bảy báu chất đầy Đông, Tây, Nam, Bắc bốn phía, trên dưới hư không ra bố thí, lại hơn phước ngày đầu, ngày giữa, ngày sau nhẫn đến trăm nghìn kiếp đem thân mạng như số cát sông Hằng mà bố thí.
Chẳng biết thế nào là bốn câu kệ ?
Phật nói : Hết thảy chúng sanh đều có tánh Phật, xưa nay chẳng sanh, xưa nay chẳng diệt, bởi vì mê ngộ nên có thăng trầm.
Tại sao ? 
Chúng sanh thường Mê không Giác ngộ cho nên nhiều kiếp đọa lạc.
Chư Phật thường Giác ngộ chẳng Mê cho nên thành Phật đạo.
Nếu có trai lành gái tín học hỏi đạo Phật, công trình vào đạo chia làm bốn việc, gọi là bốn câu kệ: là Thân Không, là Tâm Không, là Tánh Không, là Pháp Không.
Sao gọi là Thân Không? Vì thân này do Cha Mẹ sanh ra đầy đủ khí huyết của Cha Mẹ, chín khiếu thường chảy những vật không sạch, bốn đại giả hiệp, sau rồi cũng tan rã; như người trai lành gái tín tin có trí huệ biết thân này là giả, thì khi chưa chết tưởng như thân này đã chết, mượn thân giả này mà học Phật tu hành, gọi là Sắc Không, câu kệ thứ nhất.
Thường quán sát Tâm của mình chẳng sanh chẳng diệt, chí thánh chí linh. Gặp cảnh như là có, cảnh qua rồi như là không, nay biết được Chơn Tâm thường giác chẳng mê, chẳng theo vọng tưởng kéo dắt, chỉ nương Chơn Tánh làm chủ, gọi là ngộ Tâm Không, câu kệ thứ hai.
Lại quán sát Tánh của mình thường lặng yên không lay động, nếu cảm đến liền thông suốt, biến hóa vô cùng, uy linh khó nghĩ, sáng suốt làu làu. Tự mình giác ngộ hiểu biết linh thiêng, vắng lặng vô vi mà không ngoài hữu vi, gọi là ngộ Tánh Không, câu kệ thứ ba.
Lại quán sát Đức Như Lai giảng nói kinh pháp đều phương tiện dẫn dắt chúng sanh vào cửa pháp, như nước rửa bụi, như bịnh gặp thuốc, nay chứng được Tâm Không, Pháp Không, như bịnh mạnh thì thuốc không dùng nữa, gọi là ngộ Pháp Không, câu kệ thứ tư.
Nghĩa của bốn câu kệ này là con đường vào đạo, siêu phàm nhập thánh, các Đức Như Lai ba đời cũng do con đường này đi đến quả vị cứu cánh.
Tại sao ? 
Nếu ngộ đặng ý câu kệ thứ nhất, y theo nghĩa mà tu hành thì chứng đặng quả Dự Lưu Tu Đà Hoàn;
Ngộ đặng ý câu kệ thứ hai, y theo nghĩa mà tu hành thì chứng đặng quả Nhứt Lai Tư Đà Hàm;
Ngộ đặng ý câu kệ thứ ba, y theo nghĩa mà tu hành thì chứng đặng quả Bất Lai A Na Hàm;
Ngộ đặng ý câu kệ thứ tư, y theo nghĩa mà tu hành thì chứng đặng quả Vô Sanh A La Hán.
Bốn câu kệ này là mở rộng cửa đạo của các Đức Phật, nếu thọ trì đọc tụng vì người giảng nói, khiến người nghe Ngộ được Tri kiến của Phật, quyết định thành Phật không nghi ngại, nên phước đức này lớn hơn trăm ngàn ức phần phước đức đem bảy báu thân mạng bố thí trước kia không được một phần.
Đức Phật bảo Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi rằng : Phật trước Phật sau cũng đồng một thể, đều tại mỗi người tự mình minh tâm kiến tánh mà thành công đắc quả, vì Phật tánh người sẵn có, nếu không y theo Phật mà tu hành thì chẳng đặng thành Phật.
Tại vì sao ? 
Vì chưa có công đức gì ở trong Phật pháp. Nếu muốn cầu đặng bậc Phật, phải y theo mười điều dưới đây :
1.­ Phải dùng trai giới làm nền tảng đi đến bậc Phật.
2.­ Tìm minh sư chỉ dạy công phu.
3.­ Phải biết Tâm Tánh rốt ráo tỏ rõ.
4.­ Phải làm các phuớc lành giúp cho gốc đạo được sung túc.
5.­ Phải kết duyên lành cho gốc lành mỗi ngày mỗi thêm lớn.
6.­ Rõ nhân quả việc làm đừng có vọng động.
7.­ Trừ tà ma xa lìa ngoại đạo.
8.­ Phải thông chơn lý chớ chấp hữu vi.
9.­ Phải tinh tấn theo đức hạnh Phật.
10.­ Mỗi pháp phải thông suốt rõ rệt.
Nếu đủ mười điều công đức này thì mau đặng thành bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Văn Thù Sư Lợi! Sau khi ta diệt độ rồi, trong đời mạt pháp có 
Nhiều chúng sanh căn trí thấp kém, 
Tâm ý mê say, 
Trí tính mờ tối, tuy có trì trai giữ giới đều không trí huệ, 
Cái tâm ngu mê cống cao ngã mạn, tôn sùng tà kiến, không chịu hạ tâm mình để cầu Thầy học hỏi những pháp chơn chánh, khư khư chấp trước, nhận giả làm thiệt, 
Hoặc chấp trước kinh sách văn tự, hoặc chấp trước tụng trì cho nhiều số, hoặc học được hai câu nói của Phật thì cho là hoàn toàn. 
Chưa đặng nói là đặng, chưa chứng nói là chứng, căn lành tu ít mà muốn quả to, thiệt người ngu mê không hiểu ý Phật, tự mình điên cuồng tự dối mình, 
Tuy có nhân lành mà khó tránh họa dữ.
Tại sao ? 
Hột giống không chắc, khó mà kết trái Bồ đề, một khi mất thân người, muôn kiếp khó phục hồi đặng.
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật : Thế nào là tứ sanh. Tạo những nghiệp chi mà bẩm thọ thân mạng mỗi loại không giống nhau?
Thế Tôn nói : Hết thảy chúng sanh từ vô thỉ đến nay gây tạo nhiều việc điên đảo, niệm niệm không lành, vùi lấp Chơn Tánh, tham luyến trần duyên mãi mãi. Bởi tham, sân, si tạo các tội lỗi không lường không ngằn như là: sát sanh, trộm cắp, tà dâm v.v… đến khi luân hồi bẩm thụ thân mình đều khác. Nay nói sơ qua nghiệp chướng bốn loại:
1.­ Noãn sanh: Là người đời trước vì kế sinh hoạt, tâm hay sắp đặt mưu mô xảo trá lừa gạt, nên đọa làm noãn sanh như các loài chim cá v.v… Người tham kế cao thì làm chim, thấy người thì bay cao. Người mưu sâu thì làm cá, gặp người thì lặn xuống.
2.­ Thai sanh: Người này đời trước tham đắm dâm dục nên đọa thai sanh như người, dê, heo, cùng thú có vú đẻ con như trâu, bò, ngựa, mèo, chó. Tội tham dâm sanh làm người thì đặng đứng thẳng, nếu lòng ngang ngược, tham dục không có tiết độ thì sanh làm thú đi ngang bốn cẳng (chân).
3.­ Thấp sanh: Người này đời trước tham ăn rượu thịt làm việc vui chơi, đánh lộn giữa chợ, loạn tâm điên đảo, nên đọa làm thấp sanh là loài cua, tôm, rùa, trạnh v.v…
4.­ Hóa sanh: Người này đời trước hay dời đổi, ý niệm khác thường, trước mặt nói phải, sau lưng nói quấy, làm nhiều tội ác, nên đọa hóa sanh như loài ve, bướm, muỗi, ruồi v.v…
Phật nói cùng ông Văn Thù Sư Lợi : Trong lục đạo tứ sanh, con người là quý trọng, vì người có tánh linh. Phật cũng từ trong loài người mà tu hành, nghiệp cũng do người tạo ra.
Như người tu Phước thì được về Cõi Trời,
Người làm Ác thì đọa vào Địa Ngục,
Người có Đức thời làm Thần,
Người có Đạo thì làm Thánh.
Phước và tội đều có liên quan nhiều đời, không thể đem hiện tại mà nhận định, đến khi lâm chung theo nghiệp trả quả. 
Trong sáu đường, đường người là quý, năm đường kia không sánh kịp, nên một khi mất thân người, muôn kiếp không thể phục hồi lại được.
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật : Tri kiến thế nào gọi là ngũ nhãn?
Thế Tôn nói :
Nhục nhãn chỉ thấy được chỗ tối, thấy trước mắt chớ không thấy sau lưng.
Thiên nhãn trước sau, trong ngoài, núi gò, vách đá đều thấy thông suốt không ngăn ngại.
Huệ nhãn thấy được nghĩa lý trong văn tự cạn sâu và nhân quả lành dữ kiếp trước kiếp sau, rõ rệt như chỉ trong bàn tay.
Pháp nhãn thấy được cái phương tiện pháp của Chư Phật trong ba đời và hiểu được các pháp phương tiện tùy theo căn cơ cao thấp mà truyền đạo không sai lạc, như bệnh nào cho thuốc nấy.
Phật nhãn tròn sáng chói khắp, trước kiếp vô thỉ, sau kiếp vô chung tất cả nhân quả như thấy trước mắt, mảy lông cọng tóc không sót.
Năm thứ con mắt này đều do các Công Đức Phước Lành chiêu cảm mà ra. Duy có một bậc Phật là hoàn toàn, ngoài ra các bậc khác chưa được. Con mắt tuy chia làm năm, mà gốc tại cái tâm tu hành đến chỗ kiến tánh rồi thì ai ai cũng có được.
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật : Sao kêu là thanh tịnh pháp thân?
Thế Tôn nói :
Thanh Tịnh Pháp Thân ấy là Chơn Tánh Thanh Tịnh. 
Vọng tánh của chúng sanh chỉ thấy nhục thân mà không thấy pháp thân xưa nay thanh tịnh, không sanh không diệt, không hoại không thành.
Tại chỗ phàm phu gọi là Tâm Tánh,
Tại nơi thánh hiền gọi là Thánh tánh,
Trong trời gọi là Thiên tánh,
Tới chỗ Bồ Tát gọi là Phật tánh,
Tại chỗ Chư Phật gọi là Thanh Tịnh Pháp Thân.
Nếu không tu hành thì không thể ngộ được bản lai diện mục. Nếu người muốn được giác ngộ mà không cầu Thầy chứng minh cho, nhận giả làm thiệt, lâu ngày sẽ thành tà ma ngoại đạo, thành yêu thành quái, phỉnh gạt chúng sanh. Hiện đời sẽ bị pháp luật nhà vua hành phạt, chết rồi đọa vào ác đạo, một khi mất thân người muôn kiếp khó phục hồi được.
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật : Sao gọi là vô trí Niết bàn?
Thế Tôn nói : Cái tâm mình lặng yên không lay động, các Đức Phật trong ba đời đều đi theo con đường này đến chỗ tâm bất động, nên được thọ hưởng chỗ không vui mà vui, lại không có cái vui nào hơn cái vui này, nên gọi là Vô Trí Niết bàn.
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật : Lấy chỗ công phu tu chứng nào mà đặng vượt ra ngoài phàm phu vào quả thánh đạo?
Phật nói :
Nếu người trai lành gái tín theo đạo Phật thì 
Phải bỏ những việc ái ân, 
Dứt đoạn tình duyên, 
Giữ gìn trai giới, 
Chuyên làm mười việc lành, 
Ba nghiệp trong sạch, 
Xa lìa lục trần. 
Lập chí tìm Thầy học hỏi chỗ chánh pháp, y theo Thầy dạy, đừng đi theo lòng phàm dẫn dắt sai quấy, y theo Phật tu hành, nếu có công phu như vậy thì đặng chứng quả Tu Đà Hoàn.
Có người lành tập theo uy nghi của Phật, 
Giới luật trong sạch, 
Một lòng ngồi tịnh, 
Tâm không tán loạn. 
Thân, khẩu, ý ba nghiệp đều nhiếp phục cái tâm đối với đời, động ít tịnh nhiều, có công phu như vậy thì đặng chứng quả Tư Đà Hàm. 
Lại có chúng sanh trong ba nghiệp chẳng móng, 
Sáu trần chẳng sanh, 
Tịnh lâu công dày, 
Tâm Tánh thường hiệp nhất, tâm đối với đời lặng yên chẳng động, tâm đặng thông thả, bằng có cái công như vậy thì đặng chứng quả A Na Hàm. 
Có chúng sanh lấy chỗ cái tâm thong thả đó tập thành năng lực thiền định, 
Tánh định hiện ra trước, biết rõ chân tánh của mình xưa nay vắng lặng, tâm cảnh đều không, lòng tâm lặng yên không lay động, có công như thế đặng chứng quả A La Hán.
Người nào tu đặng công phu của bốn quả này, vượt ra khỏi Cõi Người, Cõi Tời Lục Dục vào chỗ đạo tràng vắng lặng của các bậc thánh hiền, đồng Phật xuất thế, giúp Phật độ khắp nơi, làm cho quốc độ Phật trở thành thanh tịnh. Độ mình độ người đặng trả ơn đức Phật, thẳng đến Bồ đề đạo tràng, lòng không điên đảo, nên tên là tứ quả đặng đạo của bậc thánh nhân.
Phật nói cùng Văn Thù Sư Lợi : Như người nào đặng bốn quả có lòng tin thiệt, y theo lời dạy bảo của Thầy, chẳng có hai lòng, giới đức tinh nghiêm, oai nghi đầy đủ, việc đời tài sắc, ái ân, danh lợi phải đoạn bỏ cho dứt, phải tuyệt cho hết từ trước đến sau, giữ đạo một lòng tuy chưa đặng thông và hiểu nhiều, mà Tâm Tánh bền chặt trong sạch giải thoát cũng như Phật không khác, nên cái quả vị siêu phàm nhập thánh.
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật : Những người thế nào gọi là có Ngã tướng, Nhân tướng, Chúng sanh tướng, Thọ giả tướng?
Thế Tôn nói :
Người phàm phu nhìn nhận tứ đại sắc thân cho là ta, tham sống sợ chết gọi là Ngã Tướng;
Lòng còn thương ghét, ý chẳng bình đẳng gọi là có Nhân Tướng; 
Niệm tưởng theo cái lòng muốn của phàm phu nó dẫn dắt chẳng cần giải thoát là có Chúng Sanh Tướng; 
Tâm thức chưa diệt trừ, nghiệp chướng thường phát động, chẳng ngộ được cái pháp vô sanh chân không thật tánh, thường theo tâm cảnh ý thức dẫn dắt, gọi là có Thọ Giả Tướng.
Còn vị Bồ Tát biết cái thân phàm là giả, tỉnh ngộ cuộc đời không chắc, thân mình còn không tiếc huống chi là gia tài ? 
Chỉ tiếc việc Phật dạy pháp đại thừa là Không Ngã Tướng.
Xem hết thảy chúng sanh bình đẳng như con đẻ, không lựa chọn kẻ sơ người thân, đều bình đẳng tế độ, gọi là Không Nhân Tướng.
Người tâm đối với đời một phen dứt rồi là dứt luôn, không nối lại nữa, gọi là Không Chúng Sanh Tướng. 
Người tỏ biết chỗ vô sanh Phật tánh, chẳng theo phàm tình ý thức dẫn dắt, nương theo phương tiện nguyện lực hành trì là Không Thọ Giả Tướng.
Nếu còn bốn tướng gọi là Phàm Phu, bốn tướng hết rồi gọi là Bồ Tát .
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật : Sao gọi là ngũ Căn, ngũ Phật đồng gieo trồng căn lành?
Thế Tôn nói :
Nếu người đặng trai giới trong sạch, minh tâm kiến tánh, tìm Thầy học các lý mầu chân chánh, đặng nghe thấy chân chánh, 
Thời con Mắt như Phật thấy, 
Lỗ Tai như Phật nghe, 
Lỗ Mũi như Phật thở, 
Miệng như Phật nói, 
Tâm như Phật biết, 
Ngũ Căn thường hiện Ngũ Phật thần thông, trồng giống Căn lành thành một giống Trí của Phật. Như có người giữ đặng chắc chắn, làm chủ đặng Tâm của mình y theo Phật tu hành, Phật nói người này chắc chắn thành Phật.
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật : Tu làm sao đặng chứng sáu pháp Ba la mật?
Thế Tôn nói :
Bằng có chúng sanh nào bỏ được rượu thịt chẳng ăn, 
Bỏ tài lợi chẳng tham, 
Bỏ đặng ái ân chẳng mến, 
Bỏ đặng việc ác chẳng làm, 
Bỏ đặng nhân ngã chẳng tranh, thì đặng thứ nhất Bố Thí Ba La Mật.
Có chúng sanh giữ đặng giới Phật, 
Tập đặng uy nghi Phật, 
Hàng phục lục tặc, dứt đặng việc tà mị, thì đặng thứ hai Trì Giới Ba La Mật.
Có chúng sanh nào hay chịu đặng người chê nhơ nhớp, hay nhịn đặng người mắng chửi, 
Người nói lời chẳng phải lấy lời khuyên giải, 
Việc nghịch đem đến lòng thuận chịu liền không oán hận, trái lại còn tìm phương độ thoát, thì đặng thứ ba Nhẫn Nhục Ba La Mật. 
Có những chúng sanh nào học đặng mười hai bộ kinh của Như Lai, thọ trì đọc tụng, biên chép giảng nói chưa thông học cho thông, chưa chứng học cho chứng, thì đặng thứ tư Tinh Tấn Ba La Mật.
Có chúng sanh nào đoạn được trần duyên, 
Dứt đặng vọng niệm, 
Trừ đặng mê muội tán loạn, 
Tập đặng thiền định, sức định như núi Tu di, Ma vương phá khuyấy không rối loạn, thì đặng thứ năm Thiền Định Ba La Mật.
Có chúng sanh phá được vô minh không còn các tướng, 
Lý sự đều không, 
Thị phi dẹp hết,
Lời nói đứng đắn, mỗi chữ rành rõ, thì đặng thứ sáu Trí Huệ Ba la mật. 
Nếu người nào đặng sáu pháp Ba la mật thì người ấy đặng ra khỏi Sanh Tử, đặng đến Bỉ Ngạn, đặng Sêu Tam Giới, đặng lên Thập Địa và đặng thành Phật.
Bồ Tát Văn Thù sư Lợi hỏi Phật : Hành trì làm sao tên là thiện trí thức?
Đức Phật nói : Thiện Trí Thức
Tâm Tánh mềm mỏng hòa nhã,
Giới hạnh tinh chuyên,
Lòng không tham lam tật đố,
Không ái luyến vật chất,
Tâm thường bình đẳng,
Ý không thương ghét.
Có đại phương tiện độ mình độ người, tùy theo căn tánh của mỗi người mà giáo hóa, đủ pháp tổng trì. 
Lòng tốt đối với người, làm ơn cho người chẳng cần trả, tu hành trong sạch, không có lỗi lầm, thuyết pháp luận nghĩa đều hiệp ý kinh. Người nào đầy đủ mấy việc này là Thiện Trí Thức.
Nếu có trí tuệ hơn người, 
Phước đức siêu quần, không chỗ nào chẳng lành, không pháp nào chẳng biết. 
Làm tai mắt cho cõi người cõi trời, là rường cột trong Phật pháp, cầm cái cân trong Phật Tổ, làm lãnh tụ trong pháp môn. 
Mở cửa chánh đạo, ngăn dẹp đường tà, nối thành dòng Phật, trồng trí huệ thơm khắp, lấy tâm ấn tâm lưu truyền chẳng dứt. Căn cơ lớn, diệu dụng lớn, hạnh nguyện lớn, uy lực lớn. Đây gọi là Đại Thiện Trí Thức Chân Chánh.
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật : Tu phước nghiệp chi đặng sanh Thiên đường?
Đức Phật nói : Nếu có chúng sanh
Tin theo luật nhân quả,
Thọ tam quy trì ngũ giới,
Tu mười việc lành,
Hiếu dưỡng cha mẹ,
Dứt đoạn tà dâm,
Thường giữ đạo chánh,
Trai tăng cúng dường,
Tạo tháp lập am,
Đọc tụng kinh đại thừa,
Sơn thếp hình tượng Phật rực rỡ.
Ủng hộ người lành,
Ngăn ngừa các việc ác,
Gieo trồng ruộng phước đến chừng mạng chung đặng sanh về Ba Mươi Ba Cõi Trời
Thọ hưởng phúc trời năm dục vui đẹp, 
Tưởng ăn có ăn, tưởng mặc có mặc, đều là tự nhiên hóa ra chẳng dụng sức người tạo tác. 
Trên trời một ngày, nhân gian trăm năm, 
Đầy đủ năm pháp thần thông, đặng khoái lạc tiêu diêu thong thả.
Đức Phật nói với Văn Thù Sư Lợi rằng :
Trong thế gian có người tà sư ngoại đạo, 
Chẳng biết việc lành việc dữ nhân quả ra sao, 
Chẳng hiểu được việc ứng hiện của luân hồi quả báo, 
Tâm cứ điên cuồng tin theo tà kiến tôn thờ thần quỷ, làm theo phép tà mị phỉnh gạt người đời, giết hại bao nhiêu thân mạng sanh linh heo, dê, trâu, ngựa v.v… tham ăn rượu thịt, bày đặt gọi rằng cúng tế trời đất quỷ thần, đặng cầu phước cầu thọ, trấn giữ nhà cửa thân mạng, lấy cớ dâng cúng quỷ thần, lường ăn của người. 
Lại thêm vẽ bùa niệm chú truyền dạy người khác nói gạt rằng: bùa chú này có công lực độ người sanh về cõi trời. Bởi ham muốn tài vật của người để nuôi dưỡng thân sống đều do tà kiến sanh ra.
Như giết mạng mà cứu đặng mạng, thời bậc vương hầu thường sống đời đời không chết. 
Như vẽ bùa niệm chú mà cứu độ đặng người thành đạo, thời Thầy tà đặng lên trời. 
Có lẽ đâu đặng vậy!
Trong đời người mê tính những tà mị, đồng nhau dẫn vào địa ngục, hễ mất thân người muôn kiếp khó trở lại đặng.
Cớ sao vậy? 
Như cầu Phước chẳng qua Trai Giới Bố Thí;
Cầu Thọ chẳng qua Bất Sát Phóng Sanh; 
Cầu Huệ chẳng qua Học Rộng Nghe Nhiều; 
Cầu An Tâm chẳng qua Xét Ngăn Những Việc Phải Quấy. 
Cho nên muốn cầu Đạo chánh thì đừng tin Thầy tà, muốn ra khỏi Luân hồi thời đừng có phạm Luật nhân quả.
Bởi sự báo ứng của tội và phước như bóng theo hình, vì tà với chánh khác nhau, khổ vui cách biệt.
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật : Sao kêu là lục sư ngoại đạo?
Thế Tôn nói :
Khi ta nhập diệt rồi, có nhiều thứ ma Ba tuần xen vào trong pháp ta. Ở chùa cạo đầu mặc áo Phật xưng là đệ tử của Phật, chung lộn với người đời ăn thịt uống rượu làm nhơ bẩn đức Phật, là ngoại đạo thứ nhất.
Có người dắt vợ đem con vào trong chùa học theo tà thuật, cho là để truyền lại đệ tử, ăn thịt uống rượu, cũng đi làm chay tụng kinh cho người, không phải người tục, ngoại đạo thứ hai.
Lại có những người trên thời không có Thầy truyền, dưới không có Thầy chứng, bị ma quỷ ám ảnh mê muội, trí biết bậy bạ cho là thông minh, chẳng có công tu tự xưng thành đạo, bên ngoài làm giống theo Phật, trong tâm làm việc tà mị, phỉnh gạt người đời theo vào đường tà, diệt hột giống trí của Phật, là ngoại đạo thứ ba. 
Có người làm theo việc hữu tình, học phép hữu vi, vẽ bùa thỉnh chú, đưổi quỷ sai thần, phỉnh gạt người đời, ác kiến càng nhiều thì chánh kiến của Phật càng tiêu diệt, là ngoại đạo thứ tư.
Có người y theo việc tốt xấu, học theo chiếm quẻ, bàn luận kiết hung, coi bói xem tướng, nói trước những điềm họa phước, dối chúng gạt người, tiêu diệt chánh pháp của Phật, là ngoại đạo thứ năm.
Có người sửa soạn hình tướng bụng trống lòng cao, mình không có tài năng mà lòng tự cao cho mình giỏi, chưa có chứng ngộ cho mình chứng ngộ, học đặng một vài lời cho mình thấu đặng lý. Chẳng ăn dầu muối, trà quả, tương dấm, chấp theo tà tướng dối gạt người không trí, chẳng cần xem kinh niệm Phật, chẳng cần làm phước tham thiền, chẳng cần xuất gia thọ giới, chẳng cần tầm sư học đạo. Dám đem cái sắc thân giả dối này mà cho cùng Phật không khác, dối gạt người không biết, đồng vào chỗ hắc ám, dứt đoạn căn lành tiêu diệt giống trí huệ, hay chấp trước những sự khờ khạo ngu si, là ngoại đạo thứ sáu.
Sáu hạng ngoại đạo này là Ma Ba Tuần; đến sau mạt pháp xen vào giáo pháp ta, phá hoại già lam, hủy báng chánh pháp của Phật, chê bai những giáo tướng nghi thức tụng niệm.
Nên Phật dạy những vị Bồ Tát Đại Thừa phải đem nguyện lực, tùy chỗ ứng hiện hoặc làm vị Đế vương, hoặc làm vị Tể quan, hoặc làm vị Trưởng giả, đều ở mọi chỗ làm vị Đàn việt đặng diệt trừ tà đạo, ủng hộ chánh pháp, không cho ngoại ma tự tiện khuấy phá, y theo lời Phật dạy đây mới thật là đệ tử của Phật. 
Còn như thuận theo tà là đồng với Ma Ba Tuần ngoại đạo, hủy báng pháp đại thừa, đọa vào địa ngục A Tỳ như tên bắn, hễ mất thân người rồi, muôn kiếp khó trở lại đặng.
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật : Có kẻ trai lành, gái tín căn tánh chậm tối, trong lòng không tỏ sáng, cái công phu chưa rồi làm sao đặng độ người?
Phật nói : Căn Lành tuy chậm tối mà có Tín Tâm bền chặc chân thật không bỏ trai giới, thường thường phát nguyện sám hối cái tội trước chẳng dám sai lầm, đến chừng tai nạn nghiệp chướng tan hết, lòng nguyện đủ rồi thì huệ tánh phát ra hiện tiền và đặng sáng suốt, tỏ ngộ thấy đặng mình và đặng thành Phật.
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật : Chúng sanh thấy Phật chẳng lạy, nghe Pháp chẳng tin, gặp Tăng chẳng kính, hủy báng Người lành, phá Người ăn chay giữ giới. Chẳng tin nhân quả, khinh dể thánh hiền, hay tin tà quỷ, tạo nghiệp mãi mãi chẳng tu một chút lành; những người như vậy sau bị những quả báo chi?
Đức Phật nói : Những chúng sanh đó đều đủ tà kiến, hiện đời chẳng tin Tam Bảo giáo hóa, sau chết quyết đọa tam đồ, chịu các khổ não lớn, cầu thoát ra chẳng đặng, dầu cho có ngàn Phật ra đời cũng không thể cứu độ đặng.
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật : Hết thảy tội nghiệp, nghiệp nào lớn hơn hết?
Thế Tôn nói : Hết thảy trong các tội,
Sát sanh, ăn thịt tội nghiệp rất nặng.
Cớ sao vậy ? 
Như cắt một dao trả lại một dao, giết một mạng phải thường lại một mạng, trăm ngàn muôn đời ăn thịt lẫn nhau không dứt. Cho nên người tu muốn khỏi luân hồi trả quả thời trước hết phải học từ bi, chẳng ăn thịt chẳng sát sanh.
Thứ hai, phạm tội trộm cắp lấy của người, hoặc vốn ít lời nhiều, trong ngàn muôn đời phải trả nợ.
Cớ sao vậy? 
Như vật của người chẳng cho mà mình lấy ngang, một đồng tiền, một bụm gạo, kiếp sau đều phải trả nợ. Cho nên người tu muốn cầu giàu sang, của tiền như ý mình thì trước phải bố thí mới đặng, hà huống trộm cắp của người.
Thứ ba, phạm tội tà dâm, cái ân ái buộc ràng trong ngàn muôn đời chẳng đặng giải thoát.
Cớ sao vậy? 
Sự dâm dục là hột giống cội gốc đường sanh tử. Cho nên người tu muốn ra khỏi sanh tử, trước phải đoạn trừ ái dục.
Thứ tư, phạm tội vọng ngữ, cái khẩu nghiệp nói dối trong ngàn muôn đời, cái phải cái không gạt nhau, việc không nói có, việc có nói không.
Cớ sao vậy? 
Oan oan tương báo, đời đời đền trả. Cho nên người tu muốn cầu vào đạo, trước phải học thành thật, trừ bỏ việc dối trá.
Thứ năm, phạm tội uống rượu, hôn mê chân tánh, trong ngàn muôn đời tâm trí tối tăm.
Cớ sao vậy? 
Vì tửu lực làm cho người mê muội ngu si, thân thể nhơ nhớp, say sưa nghiêng ngả. Cho nên người tu muốn cầu cho Tâm Tánh yên tịnh, trí huệ thông minh thì phải dứt trừ cái nghiệp uống rượu.
Năm thứ nghiệp đó rất lớn, rất nặng, như người giữ trọn đặng thì thành Thánh, bằng giữ chẳng trọn thì nhiều kiếp trầm luân đọa lạc, hễ mất thân người muôn kiếp khó trở lại đặng.
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật : Tạo những nghiệp gì đọa làm ngạ quỷ?
Thế Tôn nói :
Những chúng sanh ăn ở gắt gao, 
Tiền của chẳng thí, 
Tham mến ăn mặc, 
Lường gạt lấy tiền của công đem thọ dụng riêng. 
Có người nghèo khó xin ăn, một đồng chẳng thí lại thêm mắng chửi, cứ lo cho mình no ấm không thương người đói lạnh.
Đến khi chết rồi quyết đọa trên đường ngạ quỷ, chịu đói khổ sở, cái cuống họng nhỏ như cây kim, nuốt ăn chẳng xuống, cái bụng lớn như cái trống đồng, như hòn núi, thoảng như gặp đồ ăn uống thì đồ ăn uống ấy hóa đồng sôi sắt nóng, đói cho đến đổi trong miệng hóa ra lửa, lỗ mũi ra khói, hình thể ốm đen, đền tội đủ rồi mới hết nghiệp khổ.
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật : Tạo những nghiệp gì đọa làm súc sanh?
Thế Tôn nói : Những chúng sanh tham ăn rượu thịt, giết hại cầm thú, bày tiệc ăn chơi đàn ca vui sướng, nên trả quả làm súc sanh đền thường mạng trước. Lại có người mượn vay tiền bạc của người đoạt lấy chẳng trả, quả báo làm súc vật trả cái nợ cho người, trả cho hết cái nghiệp đó mới ra khỏi luân hồi.
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật : Sao kêu là Nhất Thế Tam Bảo?
Đức Phật nói :
Cái tánh là Phật bảo, thường thường chẳng động; 
Cái tâm là Pháp bảo, tỏ sáng công chánh; 
Cái thân là Tăng bảo, trai giới trong sạch.
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật : Sao kêu là tam tịnh giới?
Phật nói :
Thứ nhất phải trừ hết tâm ác;
Thứ hai phải đầy đủ tâm lành; 
Thứ ba phải độ hết chúng sanh. 
Đây tên là Ba Pháp Tịnh Giới của vị Bồ Tát .
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật : Tu những phước nghiệp gì được làm người đàn ông?
Thế Tôn nói :
Người biết cung kính Tam bảo,
Thảo nuôi cha mẹ,
Thường làm mười việc lành,
Thọ trì năm giới,
Lòng ở công chánh,
Quí mến người hiền lương,
Tu những căn lành như vậy thời đặng làm người đàn ông.
Nếu trong ba kiếp chẳng tu thời đọa làm đàn bà. Trong năm trăm năm làm thân đàn ông một lần, hoặc khi chuyển đổi thân, quên mất kiếp trước, gặp nhân duyên ác lại tạo việc chẳng lành, nên mất thân đàn ông, muôn kiếp khó trở lại đặng.
Lại nữa Văn Thù Sư Lợi! Thân đàn ông có đầy đủ bảy báu; thân người đàn bà có năm thứ lậu. Sao tên là bảy báu?
1.- Một là có cái báu chí khí, đi dạo chơi chỗ nào cũng không lo sợ.
2.- Hai là có cái báu làm chủ, làm việc gì cũng được nắm giữ quyền hành.
3.- Ba là có cái báu tạo thành, tự mình sanh tài lập nghiệp.
4.- Bốn là có cái báu an thân, giúp việc vua quan, hiếu dưỡng mẹ cha.
5.- Năm là có cái báu thánh tri, hay quyết đoán sự phải quấy.
6.- Sáu là có cái báu an bang khắp cả, sự lý dung hòa.
7.- Bảy là có cái báu định tánh, được gần gũi người hiền, tôn thờ vị thánh.
Cho nên gọi là người đàn ông trong mình có bảy báu.
Còn sao gọi là năm thứ lậu?
1.- Chẳng đặng làm chủ cái thân.
2.- Chẳng đặng làm chủ trong nhà.
3.- Chẳng đặng làm chủ người khác.
4.- Chẳng đặng làm chủ các súc vật.
5.- Chẳng đặng làm vị Thánh.
Đây gọi là năm thứ lậu của người đàn bà.
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật : Có người tuổi còn nhỏ tạo nhiều nghiệp dữ, đến khi già tu hành, đặng thành Phật không?
Đức Phật nói : Bể khổ không ngằn mé, nếu quay đầu thì thấy bờ bến ở mé sau lưng, nếu có người hồi tâm phát nguyện tu hành, bỏ việc quấy theo việc phải, cải dữ theo lành, trường trai ngăn cấm rượu thịt, học hỏi chánh pháp, bất kỳ già trẻ đồng thành Phật đạo.
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật : Có người trai lành gái tín một đời trai giới, gieo trồng các căn lành, đến già sa ngã bỏ ăn chay phạm giới cấm, sau bị quả báo chi?
Thế Tôn nói : Những chúng sanh như vậy tuy có căn lành mà không có nguyện lực lớn, không có chánh tri kiến, xa lìa Thầy bạn, quên hết các công lao khi trước tu hành, trở lại bị lục tặc lôi kéo, cướp đoạt công đức của mình, tâm sanh điên đảo không thành Phật đạo.
Trong đó hoặc có người phạm về việc ăn thịt thời phải đọa lạc về Thần Đạo, như bực trên thì làm quỷ vương, bực giữa thì làm dạ xoa, bực dưới thì làm la sát, chịu hưởng của người cúng tế. Đến chừng phước khí tiêu hết, theo nghiệp luân hồi trả quả, hễ mất thân người muôn kiếp khó trở lại đặng.
Trong đó hoặc có người phạm dâm dục thời làm Ma Đạo, bực trên thời làm ma vương, bực giữa thời làm ma dân, bực dưới thời làm ma nữ. Đến chừng phước khí tiêu hết, theo nghiệp luân hồi trả quả, hễ mất thân người muôn kiếp khó trở lại đặng.
Trong đó hoặc có người phạm tội uống rượu, thời đọa lạc về Quỷ Đạo, bực trên làm hữu tài quỷ, bực giữa thời làm phong nguyệt quỷ, bực dưới thời làm tiêu tán quỷ. Đến chừng phước khí tiêu hết, theo nghiệp luân hồi trả quả, hễ mất thân người muôn kiếp khó trở lại đặng.
Hoặc phạm tội trộm cắp, phải đọa lạc Tà Đạo, bực trên thời làm tinh linh, bực giữa thời làm yêu quái, bực dưới thì làm người ta. Phước khí tiêu hết, theo nghiệp luân hồi trả quả, hễ mất thân người muôn kiếp khó trở lại đặng.
Hoặc phạm tội vọng ngữ, chưa đặng nói là đặng, chưa chứng nói là chứng, cái lòng tự cao nên phải đọa làm Loài Yêu, bực trên thời làm ly mị, bực giữa thời làm vọng lượng, bực dưới thời dựa gá cỏ cây. Phước khí tiêu hết, theo nghiệp luân hồi trả quả, hễ mất thân người muôn kiếp khó trở lại đặng.
Lại có người hay oán giận, tuy có phước đức cũng đọa Tu La Ác Đạo, bực trên là A tu la vương, bực giữa là A tu la chúng, bực dưới là A tu la nữ, thường ham tranh đấu, chịu những lao khổ mãi mãi. Phước khí tiêu hết, theo nghiệp luân hồi trả quả, hễ mất thân người muôn kiếp khó trở lại đặng.
Cớ sao vậy ?
Nếu tu hành còn uống rượu mà muốn thành đạo, thì cũng như người uống thuốc độc mà muốn được an vui, không có thể được.
Nếu tu hành mà còn ăn thịt, muốn được thành đạo, cũng như nhận kẻ oán thù cho là con mình, muốn được thân yêu không có thể được.
Nếu tu hành phạm tội trộm cắp, muốn đặng thành đạo, cũng như lấy cái lu thủng đựng nước, muốn nước đầy mãi không có thể được.
Nếu tu hành còn phạm dâm dục, muốn cầu thành đạo thì như nấu cát đá muốn cho thành cơm, không có thể được.
Nếu tu hành chẳng dứt bỏ nói dối, lấy cái dối làm thiệt, muốn cho thành đạo cũng như người thường dân xưng là vị quốc vương, muốn cầu giàu sang không có thể được.
Nếu tu hành mà tâm thường hay giận hờn, tánh thường hay tranh hơn thua, thiếu lòng từ bi bình đẳng mà muốn thành đạo, cũng như mình đi chiếc ghe lủng, muốn qua biển lớn thì phải bị chìm, tại nơi người muốn nên phải bị đọa, chẳng phải đức Phật chẳng cứu.
Nếu như muốn đoạt kết quả tốt đẹp của đạo Bồ đề thì phải giữ gìn trai giới của Đức Như Lai cho được thanh tịnh, thà là bỏ thân mạng, nhứt định không hủy phạm; Đức Phật nhìn nhận người này chắc chắn được thành Phật.
Đức Phật nói với Văn Thù Sư Lợi rằng :
Ta cũng từ chỗ phát tâm trai giới trong sạch mà đặng,
Ta cũng từ chỗ chân thật mãi mãi không lui sụt mà đặng,
Ta cũng từ chỗ lập nguyện rộng lớn, nguyện ra khỏi thế gian mà đặng,
Ta cũng từ chỗ lập chí bình đẳng chẳng luận bà con hay là người dưng mà đặng,
Ta cũng từ chỗ hạ tâm thấp hèn cầu Thầy học hỏi mà đặng,
Ta cũng từ chỗ từ bi nhẫn nhục mà đặng,
Ta cũng từ chỗ tinh tấn giải thoát mà đặng,
Ta cũng từ chỗ khó làm mà làm, khó bỏ mà bỏ, khó học mà học cho đến ta cũng từ chỗ học hết thảy các giống trí huệ mà đặng.
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật : Như người ở trên đời không có trai giới mà hay làm phước huệ cho đời. Sau khi chết rồi có con hiếu thuận hoặc trai hay gái thỉnh Thầy tụng kinh đại thừa, làm thủy lục hoặc trai đàn lớn cầu siêu độ vong linh, không biết vong linh có thể siêu độ không?
Đức Phật nói : Nếu như người khi sanh tiền không có công lành, chết rồi có con cháu làm công đức cầu siêu, bố thí bạc tiền thì mười phần công đức chỉ đặng ba phần.
Cớ sao vậy ? 
Vì lập công làm phước không chỉ qua tiền bạc của mình ra làm chay bố thí trong chúng, đồng phần người sống được phước hơn người vong. 
Còn như thỉnh Thầy uống rượu ăn thịt chẳng đặng trong sạch, tụng kinh lấy bạc tiền. Thiên thần chẳng giáng lâm, Phật thánh không đến trợ, lại vong linh ấy càng thêm tội lỗi.
Bằng như có con hiếu thuận chơn chánh, Cha Mẹ chết rồi, trong mỗi tuần bảy ngày làm chay bảy thất, hoặc trong ba năm cả nhà ăn chay giữ giới, xuất tiền của trong sạch, cầu thỉnh Thầy tu hành đức hạnh, trai giới tinh nghiêm, tụng kinh đại thừa, hoặc làm chay thủy lục thiết lập nghiêm trang, thắp hương rãi hoa y theo pháp cúng dường, có lòng thành kính thay thế cho vong hồn khỏi tội đặng phước.
Nếu cầu siêu bố thí bạc tiền như vậy, vong linh mới đặng sanh lên cõi trời, người sống cũng đặng phước, kẻ còn người mất đều an vui, người vui mừng thần thánh cũng vui mừng, như vậy mới thật là con cháu hiếu thuận.
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật : Sao kêu là minh sư khẩu khuyết?
Đức Phật nói :
Khi Như Lai diệt độ rồi, có dạy các vị Bồ Tát truyền Phật tâm ấn, tiếp nối huệ mạng của Phật đều giáo hóa mỗi phương, dẫn dắt những người chưa ngộ. Nếu chúng sanh nào có nhân duyên đặng nhân quả chơn chánh, chánh kiến, chánh tu hàng phục tà ma ngoại đạo, phá trừ tà kiến, tu công hạnh chánh trước sau trong sạch, biết người chẳng có căn lành chẳng độ, người không phước đức chẳng truyền. 
Nếu có trai lành gái tín chơn chất, trí huệ sáng suốt hết lòng tầm cầu học đạo, thường thường thân cận cúng dường lâu ngày, hạ tâm tham cầu học hỏi, Thầy với trò được biết với nhau rồi, chừng đó mới lấy tâm ấn tâm, lấy đạo truyền đạo, như các vị Tổ trước sau tiếp nối lưu truyền chẳng dứt, đây tên là Thiên cơ khẩu khuyết. Nếu người có duyên gặp đặng, không luận căn lớn hay nhỏ cũng thành Phật đạo.
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật : Hoặc có người trai hay gái, gần Thầy nghe pháp thường thường mà nữa tin nữa không, dường như quy y mà chẳng y theo, thân tuy lạy Phật mà lòng nghi hoặc đã nhiều, tâm mình chẳng ngộ trở lại trách Thầy không chịu chỉ dạy, những người như vậy làm thế nào hóa độ?
Đức Thế Tôn nói : Đây là những người ít phước, trí huệ cũng không, nên không biết pháp vô vi, chấp trước hình tướng, tà kiến kiêu mạn che lấp Chơn Tâm, chẳng đặng chánh kiến.
Cớ sao vậy ?
Nếu người tu hành biết trọng Thầy thời mới trọng pháp, còn như tu hành khinh dễ Thầy thì trong lòng cũng khinh dễ pháp. Hễ trọng Thầy trọng pháp thời học mới đặng, còn khinh Thầy thời pháp không học, nếu khinh Thầy chê pháp là người tăng thượng mạn. Tuy đồng đi với Thầy mà lòng xa cách như ngàn muôn dặm, đến chừng mạng chung vào địa ngục A Tỳ, ngàn muôn Phật ra đời cứu độ chẳng đặng, hễ mất thân người muôn kiếp khó trở lại đặng.
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật : Sao kêu là một thân mà có bảy báu bố thí?
Đức Phật nói : Nếu chẳng tham là Bố thí,
Như con mắt chẳng tham sắc tốt và các vật đẹp là Sắc bửu bố thí,
Lỗ tai chẳng nghe tiếng vui đờn ca xướng hát là Thinh bửu bố thí,
Lỗ mũi chẳng tham ngửi hơi thơm tho vật lạ là Hương bửu bố thí,
Cái lưỡi chẳng tham vị béo ngọt ngon là Vị bửu bố thí,
Cái thân chẳng tham mặc quần áo tốt đẹp là Xúc bửu bố thí,
Ý chẳng tham danh lợi, ân ái dục tình là Pháp bửu bố thí,
Tánh chẳng tham những sự dục lạc trong thế gian là Phật bửu bố thí.
Nếu có người biết đặng trong thân mình có bảy báu bố thí thì được phước đức hơn là đem bảy báu trong thế gian như kim, ngân, lưu ly, trân châu, mã não, san hô, hổ phách, trăm ngàn muôn phần bố thí cũng chẳng bằng một phần, nhẫn đến không thể đem thí dụ gì mà so sánh được.
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật : Sao kêu là Vương Xá Thành ?
Đức Thế Tôn nói :
Tâm thí dụ là “Xá”,
Tánh thí dụ là “Vương”,
Trai giới trong sạch thí dụ “Thành tường”,
Sáu căn thí dụ “sáu bộ quan lại”,
Sáu trần thí dụ “sáu mối giặc mạnh”,
Sáu thức thí dụ “sáu cái cửa ra vào”,
Năm dục thí dụ “năm con đường hang hố”,
Kiến văn tri giác thí dụ “trong nước có bốn tướng đồng phò tá Tánh vương”.
Giống như việc nhà việc nước, khi Tánh vương ra ngồi chỗ “Tâm xá” thường cùng sáu thần, bốn tướng đồng nghị sự lý thưởng phạt trong nước. Nếu Tánh vương có đạo chẳng vị tình riêng, có công thời thưởng, có tội thời trừng, lấy chánh lý hành đạo; như vậy người chết cũng không oán hận, hành chánh như thế thì thành vách trai giới ở bên ngoài được bền chắc, sáu cửa đóng kín sáu giặc chẳng xâm phạm. Ở bên trong thời được sáu thần chơn chánh, bốn tướng công bình, chẳng dám làm điều hư tệ; bên trong bên ngoài như vậy thời Tánh vương đặng thái bình.
Nếu Tánh vương không có đạo, nghe lời sàm tấu, thâu dụng nịnh thần, bỏ việc công theo việc tư, thưởng phạt chẳng công bình, trên dưới nghịch lẫn nhau. Bên trong sáu thần chống báng nhau, bốn tướng hư tệ; ở bên ngoài sáu cửa chẳng đóng, sáu giặc nổi loạn, công phá vách thành trai giới vào trong nước cướp đoạt công đức của Tánh vương, cái Phước hết, cái Pháp không còn, Thân Tâm phải sa ngã chìm đắm mãi mãi.
Cho nên muốn trị Thân thời phải có pháp luật, muốn trị Tâm thời phải có đạo lý,nếu không Công Bình thời không làm, không Chân Chánh thời không dùng. Phải được trong ngoài như nhau, trên quan dưới dân không lỗi, chúa tôi phải đạo, Tâm Tánh sáng suốt, thể dụng điều hòa thì Tánh vương, quan dân đều được thái bình vui vẽ, nên tên là Vương Xá Thành.
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật : Sao gọi là Phật Pháp của mình?
Thế Tôn nói :
Nếu hiểu rõ Chơn Tánh của mình xưa nay là Phật, trong Tâm có Phật;
Còn pháp trong thế gian và xuất thế gian đều thông biết chẳng lầm, là pháp của mình.
Nên cái Tâm cần phải có đạo lý nuôi dưỡng,
Phật phải nhờ có giáo pháp phò trì,
Cho nên của vật để nuôi thân mạng,
Đạo lý để nuôi huệ mạng.
Đạo gồm thông tất cả nên được thành Phật.
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật : Bồ Tát Quán Thế Âm sao lại có đến một ngàn con mắt, một ngàn cánh tay?
Thế Tôn nói :
Con mắt là biểu hiệu kiến tánh,
Cánh tay là biểu hiệu diệu dụng.
Nếu người hiểu được rốt ráo, minh tâm kiến tánh thì kiến tánh này cũng đồng như một ngàn vị Phật kiến tánh không khác, nên tên là Thiên nhãn đều phóng ra hào quang sáng chói. Tự tánh của mình phát sanh diệu dụng cũng đồng diệu dụng như ngàn vị Phật chẳng khác, nên tên là Thiên thủ tác dụng đồng vậy. Thể và dụng hai pháp đều biểu lộ ra như vị Viên Thông Quán Thế Âm Bồ Tát .
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật : Sao kêu là ba độc?
Đức Thế Tôn nói :
Ngu si tà kiến là một độc,
Tham lam chẳng đủ là hai độc,
Sân nộ tật đố là ba độc.
Ba độc này còn hoài thì người ấy phải đọa trong tam đồ, một khi mất thân người muôn kiếp khó trở lại đặng.
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật : Sao kêu là tứ đại?
Thế Tôn nói :
Đất có tánh chắc,
Nước có tánh thông,
Lửa có tánh nóng,
Gió có tánh động kêu là tứ đại.
Trong thân người cũng có tứ đại hòa hiệp mới thành một thể, nên da thịt gân cốt hiệp thành cái thân tên là Địa đại.
Nước miếng, nước tiểu và máu tươi nhuận cái thân tên là Thủy đại.
Trong mình hơi ấm vận chuyển điều hòa cái thân tên là Hỏa đại.
Tay chân co duổi đi đứng tới lui, chuyển động cái thân tên là Phong đại.
Hễ tứ đại điều hòa thì thân an lạc; tứ đại chẳng hòa ắt sanh bệnh khổ. Nên địa, thủy, hỏa, phong kêu là tứ đại.
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật : Làm sao kêu là hiếu thuận?
Thế Tôn nói :
Hiếu là lòng từ,
Thuận là chẳng nghịch chánh lý.
Người có hiếu từ chẳng sát hại sanh linh để cho mình được sống, chẳng giữ lấy việc tư làm trái sự công bình; tôn trọng ngôi Tam Bảo, kính trọng Cha Mẹ, chẳng sai chẳng dối, không thương không ghét. Khuyên bảo trong nhà đồng tu phước huệ, ở trong thời thuận hòa, ở ngoài thời trên cung dưới kính, Cha Mẹ còn hiện tiền an vui tâm thể, Cha Mẹ mãn số đặng lìa tội khổ đặng sanh cung trời mới thiệt là thế gian nam nữ hiếu thuận.
Còn như mỗi ngày sát hại sanh vật cúng dưng Cha Mẹ Ông Bà, làm thêm tội nghiệp cho Tổ Tông, thiệt là người đại bất hiếu, lúc sống đồng tạo nghiệp, sau chết đồng đọa với Cha Mẹ, oan trái dẫn dắt với nhau chung vào một chỗ đồng đi luân hồi, hễ mất thân người muôn kiếp khó trở lại đặng.
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật : Sao kêu rằng phương tiện?
Thế Tôn nói : Hai chữ phương tiện có nhiều nghĩa, nay ta lược nói có đến mười lăm nghĩa:
1.- Phương tiện thứ nhất chẳng nuôi chẳng giết.
2.- Phương tiện thứ hai chẳng ăn thịt uống rượu.
3.- Phương tiện thứ ba không nấu rượu.
4.- Phương tiện thứ tư không giết hại nhau.
5.- Phương tiện thứ năm đừng chỉ sai đường cho người.
6.- Phương tiện thứ sáu chẳng nên đốt rừng.
7.- Phương tiện thứ bảy đừng oán trời trách đất.
8.- Phương tiện thứ tám đừng khinh khi thần thánh.
9.- Phương tiện thứ chín đừng nói những lời thô tục.
10.- Phương tiện thứ mười chứa nhân bố đức.
11.- Phương tiện thứ mười một cần kiệm biết đủ đừng tham.
12.- Phương tiện thứ mười hai kính người già cả thương kẻ nghèo đói.
13.- Phương tiện thứ mười ba phải cứu giúp nhau khi hoạn nạn.
14.- Phương tiện thứ mười bốn tu nhơn chứng quả.
15.- Phương tiện thứ mười lăm không oán thù kẻ bà con thân cận, cũng đều bình đẳng tế độ giúp nhau.
Nếu người làm đặng mười lăm phương tiện này thì được mười lăm phước báo thanh tịnh. Thường sanh làm người hoặc được về cõi trời, thọ hưởng những điều khoái lạc tiêu diêu.
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật : Sao kêu rằng hảo tâm?
Thế Tôn nói : Hai chữ hảo tâm ít người làm được, nếu có lòng hảo tâm,
Làm việc lợi ích cho người chẳng cần trả ơn,
Làm việc giúp người chẳng cần quả báo,
Cúng dường cho người chẳng cần phước báo,
Làm lợi ích cho người chẳng cần ân báo những đến hạ tâm mình xuống, làm cho lòng muốn của người được đầy đủ,
Khó bỏ xả mà bỏ xả đặng,
Khó nhịn mà nhịn đặng,
Khó làm mà làm đặng,
Khó cứu mà cứu đặng, chẳng luận bà con hay người dưng, lấy tâm bình đẳng cứu giúp làm đúng sự thật.
Chẳng phải miệng nói mà lòng không làm, con người cái miệng nói hảo tâm mà lòng không làm từ thiện;
Người hiền tâm thường làm những việc tốt mà miệng chẳng khoe khoang. Ý nghĩ giúp ích cho người mà thôi, chẳng cầu danh vọng cho mình như vậy mới thật là hảo tâm.
Không phải như những người bỏ ra có một tấc mà muốn lấy vô được một thước, gieo giống ít mà muốn đặng trái nhiều, như vậy đâu phải là người hảo tâm.
Bồ Tát Văn Thù sư Lợi hỏi Phật : Sao kêu là người trí, sao kêu là người ngu, sao kêu là người mê, sao kêu là người ngộ. Xin Đức Phật từ bi giảng dạy?
Đức Phật nói :
Chữ Trí là biết, người trí biết có đạo Phật cần phải tu, 
Biết có Thánh giáo cần phải học, 
Biết có Minh sư cần phải cầu, 
Biết có Phước cần phải làm, 
Biết có tội cần phải sám hối, 
Cho đến biết rõ Pháp thế gian, Pháp xuất thế gian và sự luân hồi quả báo như trên trời có mặt nhật, như đêm tối có đèn. 
Được hiểu biết, được nghe thấy sự báo ứng của việc lành việc dữ, hễ hiểu biết nghe thấy rồi liền bỏ dữ theo lành, cải tà quy chánh. 
Việc phi lý không bao giờ nói, ngoài phận sự không bao giờ làm, không phải đạo chơn chánh không theo, không phải vật của mình không lấy. 
Tư tưởng trung chánh mỗi mỗi chơn thật, tích đức nêu danh lưu truyền đời sau, như vậy gọi là người trí thức.
Ngu là tối, người ngu cái lòng tối tăm, 
Chẳng biết cao thấp lớn nhỏ, 
Chẳng biết thiên đàng địa ngục, 
Chẳng tin có tội phước luân hồi, 
Một bề tham luyến tửu sắc, 
Sát sanh hại mạng để cung cấp cho cái miệng hay bao tử. 
Trong một đời sát sanh trăm ngàn súc vật, gây cái nợ oan trái trăm ngàn muôn ức tánh mạng, luân hồi gặp gỡ ăn nuốt lẫn nhau, không biết bao giờ thôi dứt. 
Hết thảy các loại trâu, dê, heo, ngựa đều là đòi trước hoặc kẻ thân nhân, hoặc người thù oán, sau khi luân hồi thay hình đổi dạng làm thân súc sanh. Người si mê không biết giết hại mà ăn, cũng như giết Cha Mẹ của mình, hay ăn thịt Bà Con dòng họ của mình. Cha bị Con giết, Con bị Cháu giết, trên đường luân hồi Cha Con chẳng biết nhau, giết nhau ăn nhau không bao giờ dứt, một khi mất thân người muôn kiếp khó phục hồi đặng.
Người  muội tham mến tửu sắc, muốn được khoái lạc, 
Buông lung sáu căn tham mến sáu trần, làm nhiều cách điên đảo đủ điều,
Chỉ nhớ sự thọ dụng hiện tiền, không ngó lại thân sau chịu khổ, 
Mê muội chơn linh đuổi theo huyễn vọng, bỏ xa tánh giác phối hợp trần duyên. 
Ví dù gặp bậc thánh hiền cũng không cứu độ được, chìm sâu biển khổ mất hẳn tánh linh, một khi mất thân người muôn kiếp khó phục hồi đặng.
Chữ Ngộ là giác, người ngộ rồi tự hiểu biết tâm mình là Phật, mộ đạo tu hành, 
Ba nghiệp không còn, sáu căn thanh tịnh. 
Phương tiện đủ cách, không có ngã nhơn, độ mình độ người đều thành Phật đạo. 
Tuy ở thế gian mà chẳng nhiễm thế gian, ở trong trần lao mà vẫn chuyển pháp luân, giáo hóa Ta bà đổi thành Cực lạc, biến địa ngục làm thiên đường. 
Chỉ dẫn những người mê đặng thấy Phật tánh, làm các việc Phật pháp, độ thoát chúng hữu tình, chẳng bỏ lòng từ bi, thệ nguyện cứu độ. 
Nếu chúng sanh nào biết cúng dường người này thì đặng phước đức như cúng dường các Phật ba đời công đức như nhau không khác.
Cớ sao vậy ? 
Nghĩa là mình giác tỉnh rồi, độ người cùng giác tỉnh gọi là chánh giác, thuyết pháp lợi sanh, diệu dụng thần thông cùng Phật không khác. Hay mở bày chỉ rõ cho chúng sanh Ngộ tri kiến Phật, hay dẫn dắt cho chúng sanh Nhập tri kiến Phật, hay tìm xét cho chúng sanh Tánh tri kiến Phật.
Tại sao ? 
Nếu có người biết tỉnh ngộ thì
đặng danh hiệu Bồ Tát ,
Đặng thông các pháp bí mật của Phật,
Chơn chánh truyền thọ cho người.
Nếu có người trai lành gái tín đặng Thầy nghe pháp, tin theo giáo pháp của người này chỉ dạy, đều là Chánh Nhơn, đều đặng chánh quả.
Cho nên người còn nhỏ tu hành đặng Chánh Pháp, liền thành Phật đạo;
Hai mươi tuổi tu hành đặng Chánh Pháp cũng thành Phật đạo;
Ba mươi tuổi tu hành đặng Chánh Pháp cũng thành Phật đạo;
Bốn mươi tuổi tu hành đặng Chánh Pháp cũng thành Phật đạo;
Năm mươi tuổi tu hành đặng Chánh Pháp cũng thành Phật đạo;
Sáu mươi tuổi tu hành đặng Chánh Pháp cũng thành Phật đạo;
Bảy mươi tuổi tu hành đặng Chánh Pháp cũng thành Phật đạo;
Tám mươi tuổi tu hành đặng Chánh Pháp cũng thành Phật đạo.
Kẻ trai lành tu hành đặng Chánh Pháp cũng thành Phật đạo;
Người gái tín tu hành đặng Chánh Pháp cũng thành Phật đạo;
Người giàu sang tu hành đặng Chánh Pháp cũng thành Phật đạo;
Người nghèo khổ tu hành đặng Chánh Pháp cũng thành Phật đạo;
Đế vương tu hành đặng Chánh Pháp cũng thành Phật đạo;
Tể quan tu hành đặng Chánh Pháp cũng thành Phật đạo;
Cho đến loài người và không phải loài người tu hành đặng Chánh Pháp cũng thành Phật đạo.
Nên Đức Thế Tôn nói bài kệ như vầy :
Bằng có nam hay nữ
Đặng gặp chơn minh sư
Tu hành đặng Chánh Pháp
Tất cả đều thành Phật.
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật : Hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, vì sao không tu thì chẳng thành Phật?
Thế Tôn nói : Không phải là không thành Phật, chỉ vì nghiệp chướng rất nhiều.
Tại sao ?
Hết thảy chúng sanh mê muội điên đảo từ đời vô thỉ đến nay, chẳng trồng căn lành chỉ tạo ác nghiệp, oan oan buộc nhau, nghiệp nghiệp kéo nhau, bên này chẳng chịu buông bên kia, bên kia chẳng chịu tha bên này, kết thành cái lưới nghiệp dẫy đầy trong thế gian, cho nên thường vào ra ba đường lại sáu nẻo, gặp gỡ nhau ăn nuốt lẫn nhau, báo ứng xoay vần không bao giờ dứt. 
Giả như oan trái trả đủ được sanh trong loài người lại không có căn lành, không gặp Chánh Pháp, ví dù có gặp chăng nữa, các căn mờ tối, ma chướng chập chồng, đường đạo khó phát triển nên chẳng đặng thành chánh quả.
Đức Phật nói với Văn Thù Sư Lợi :
Nếu người không giữ giới sát sanh ăn thịt thì đoạn dứt hột giống từ bi;
Người không giữ giới trộm cắp, của người không cho mà mình lấy là đoạn tuyệt hột giống giàu sang;
Người không giữ giới tà mị dâm dục là đoạn tuyệt hột giống thanh tịnh;
Người không giữ giới nói dối, nói thêu dệt là đoạn tuyệt hột giống thành thật;
Người không giữ giới say rượu mê man là đoạn tuyệt hột giống thông minh trí huệ.
Cho nên không giữ năm giới là tuyệt đường nhơn thiên, còn năm giới mà giữ được thời đoạn tuyệt ba đường dữ; lành dữ tại mình tạo ra mình chịu lấy.
Tại làm sao ?
Bởi ông tu ông đặng, bà tu bà đặng, 
Tu nhiều đặng nhiều, 
Tu ít đặng ít, 
Đồng tu đồng đặng, 
Chẳng tu chẳng đặng,
Ai tu đặng công nấy, người khác chia chẳng đặng.
Nếu người gây tạo tội ác thì người chịu lấy, người khác chịu thế chẳng đặng;
Cho nên muốn tránh khỏi địa ngục, trước phải trừ cái lòng dữ;
Muốn tránh khỏi ngạ quỷ, trước phải đoạn dứt lòng khắc bạc tham lam;
Muốn tránh khỏi súc sanh thì đừng ăn thịt súc vật;
Muốn đặng làm người phải học các hạnh hiếu thuận từ bi;
Muốn sanh cõi trời phải giữ năm giới;
Muốn thành Phật thì phải minh tâm. Hễ đặng minh tâm thì nhân quả chẳng mờ tối, nhân quả chẳng mờ tối thì tự nhiên kiến tánh thành Phật, không còn nghi ngời gì nữa.
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi : Lành thay! Thân người khó đặng, Trung Độ khó sanh, Chánh Pháp khó gặp, Trí Thức khó gần.
Thân Người khó đặng, nay đã đặng; 
Trung Độ khó sanh, nay đã sanh; 
Chánh Pháp khó gặp, nay đã gặp; 
Trí Thức khó gần, nay đã gần. 
Việc việc đầy đủ, mỗi mỗi sẵn sàng, nếu chẳng phát tâm tu hành, Phật cũng khó cứu đặng.
Bây giờ trong pháp hội các vị Tỳ kheo mới phát tâm và chúng Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, vô lượng Thiên Long Bát Bộ đều ngộ bổn lai Phật tánh của mình. 
Hết thảy công đức do nơi tâm mình mà sanh, huệ thân viên mãn cũng do nơi tâm mình mà có.
Sau khi tứ chúng nghe Đức Phật nói kinh Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận này rồi, đều vui mừng hớn hở tin chịu vâng làm.

Thứ Năm, 11 tháng 8, 2016

Thiền Sư Tông Diễn Hiếu với Mẹ

Thiền sư Tông Diễn & hành trình tìm lại người mẹ ly biệt

“Tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật”. Với tinh thần đó, đọc lại lịch sử Phật giáo Việt Nam, nhất là qua gương sống của chư vị thiền sư, các bậc xuất gia, ngoài công hạnh tu tập, hành đạo, chúng ta còn gặp nhiều câu chuyện hiếu đạo hết sức đặc biệt. Trong số đó, phải kể đến Thiền sư Tông Diễn.

Minh họa - Nhuận Thường

Chuyện ghi lại rằng, Thiền sư Tông Diễn, hiệu Chân Dung (1640-1711), người thôn Phú Quân, huyện Cẩm Giang. Sư là Tổ thứ 2 của dòng thiền Tào Động ở Việt Nam. Ngoài đạo nghiệp, cuộc đời của Thiền sư Tông Diễn còn có một sự tích rất cảm động lòng người. Đó là câu chuyện về lòng hiếu thảo của ngài với người mẹ của mình.
Sư mồ côi cha từ nhỏ, mẹ tảo tần chạy chợ buôn bán để nuôi sư. Năm sư 12 tuổi, một hôm bà mẹ chuẩn bị gánh hàng ra chợ bán, dặn con: “Mẹ có mua sẵn một giỏ cáy (cua) để sẵn ở ao, trưa nay con giã cáy nấu canh, trưa về mẹ con mình dùng”. Bà gánh hàng đi rồi, gần đến giờ nấu cơm, sư ra ao xách giỏ cáy lên định đem giã nấu canh như lời mẹ dặn, song nhìn thấy những con cáy tuôn những hạt bọt ra, dường như khóc rơi từng giọt nước mắt. Xót thương quá, sư không đành đem giã, lại đem đến ao giở nắp giỏ thả hết.
Đến trưa bà mẹ đi bán về, vừa nhọc nhằn vừa đói bụng, hai mẹ con lên mâm cơm ngồi ăn, bà không thấy món canh cáy liền hỏi lý do. Sư thưa: “Con định đem đi giã, thấy chúng nó khóc, con thương quá đem thả hết”. Bà mẹ nổi giận, bỏ bữa cơm, chạy lấy roi đánh sư một trận như lôi đình. Sợ quá, sư chạy một mạch không dám ngó lại. Từ đó sư và mẹ ruột ly biệt.
Sau khi chạy khỏi nhà, sư mệt quá ngất đi và được một sư cụ đưa về chùa cưu mang. Từ đó sư ở chùa và rồi xuất gia. Sau khi đã tu hành sáng đạo, một bữa sư tọa thiền, lòng bỗng nhớ đến người mẹ xưa. Ngài nghĩ mẹ giờ chắc đã già yếu không có ai chăm sóc. Người tu hành từ bỏ đời sống gia đình nhưng ơn sinh thành dưỡng dục thì phải đền đáp. Nghĩ vậy ngài liền về quê cũ tìm mẹ nhưng tìm không ra. Bởi vì sau buổi lỡ giận đánh con đó, mẹ ngài cũng hối hận đi lang thang khắp nơi tìm con.
Đến hơn ba mươi năm sau, người mẹ thì cũng già yếu nên trở về quê cũ và mở một quán nước để làm kế sinh nhai và tiện việc hỏi han tin tức con mình. Suốt mấy chục năm bà chỉ mong tìm được đứa con trai duy nhất để nói một câu xin lỗi, có thế thì mới yên lòng nhắm mắt và gặp lại chồng dưới chín suối.
Về phần mình, sư vẫn dò la tin tức về người mẹ đã ly biệt. Một dịp, sư lại về làng cũ và vào quán trà của bà lão uống nước. Thấy bà lão đầu tóc bạc phơ đang châm trà bán cho khách, đợi đến lúc bà lão rảnh, sư mới hỏi thăm lai lịch. Bà thở dài than:
- Bạch sư cụ, chồng tôi mất sớm, có một đứa con trai mà nó bỏ đi mất từ khi được mười hai tuổi. Thân già hôm sớm không ai, tôi phải lập quán bán nước trà, kiếm chút ít tiền sống lây lất qua ngày.
Sư hỏi:
- Cụ có muốn vào chùa không, nếu cụ đồng ý thì chúng tôi xin thỉnh cụ về chùa để nương bóng từ bi trong những tháng ngày còn lại.
- Tôi già rồi đâu làm gì nổi mà vào chùa công quả, không làm mà ăn cơm chùa tội lắm.
Sư nói:
- Cụ đừng ngại, ở chùa có nhiều việc, người mạnh gánh nước bửa củi, nấu cơm, người yếu quét sân, nhổ cỏ, miễn có làm chút ít, còn thì giờ tụng kinh niệm Phật là tốt.
Bà lão thấy sư có lòng tốt bèn nói:
- Nếu sư cụ thương giúp kẻ cô quả này, tôi rất mang ơn.
Sư hẹn ít hôm sau sẽ có người đến đón bà về chùa. Về chùa, sư họp Tăng chúng nơi sư đang trụ trì hỏi ý kiến có thuận cho bà lão cô quả ấy ở chùa không. Toàn chúng đều đồng thuận mời bà lão về chùa. Sư cho cất một am tranh trong khuôn viên chùa, cho người đi rước bà lão về ở đây. Mỗi hôm, sư phân công bà lão quét sân chùa hay nhổ cỏ, tùy sức khỏe của bà. Sư luôn luôn nhắc nhở bà tu hành và mỗi sáng đều qua am thăm hỏi bà lão.
Được một thời gian, bà lão lâm bệnh, sư tự thân nấu cháo săn sóc bà lão khiến các đệ tử đều thấy lạ. Biết bà lão không sống được bao lâu, song vì có duyên sự phải đi vắng năm bảy hôm nên trước khi đi, sư dặn dò mọi người: Nếu bà lão có mệnh hệ gì thì chúng Tăng cứ làm đủ lễ nghi nhưng khi liệm thì đừng vội đậy nắp áo quan, đợi sư về sẽ đậy sau.
Đúng như lời sư đoán, bốn năm hôm sau bà tắt thở, Tăng chúng làm đúng như lời sư dặn, chỉ để bà trong áo quan mà không đậy nắp. Hai hôm sau sư về, nghe bà lão mất còn để trong áo quan. Sư về nhìn mặt lần chót, đi quanh quan tài 3 lần rồi đậy nắp quan lại. Sau đó sư nói to:
- Như lời Phật dạy: Một người tu hành ngộ đạo cha mẹ sanh thiên, nếu lời ấy không ngoa xin cho quan tài bay lên hư không để chứng minh lời Phật.
Nói xong sư liền cầm tích trượng gõ ba cái, quan tài từ từ bay lên hư không, rồi hạ xuống. Lúc ấy mọi người mới biết bà lão là mẹ của sư.
Hòa thượng vừa dứt tiếng, chiếc quan tài bỗng như có một lực đẩy, từ từ nâng lên cao, sát mái am tranh, lơ lửng. Mọi người đồng loạt quỳ xuống, chắp tay, ngẩng mặt nhìn lên trong một niềm kính ngưỡng tột cùng. Mắt Hòa thượng sáng ngời, an trú trong giây phút hiện tại tuyệt vời, một giây mà đằng đẵng thiên thu.
Tâm hiếu của người con hòa lẫn trong tâm từ của một bậc chân tu đắc đạo, nở tung như đóa sen tỏa hương tinh khiết, tuy vô hình mà bất diệt, tuy vô thanh mà tràn ngập âm hưởng diệu kỳ, tuy vô tướng mà chan hòa khắp cùng cõi giới.
Khi chiếc áo quan nhẹ nhàng trở về chỗ cũ, người ta thấy gương mặt bà cụ - bây giờ đã rõ là thân mẫu của sư trụ trì - tươi nhuận rạng rỡ. Mùi hương lạ lại tỏa ra phảng phất quanh nhà. Mọi người đứng bất động, đắm mình trong niềm phúc lạc ngàn năm chưa dễ có.
Nơi quán nước ngày xưa của mẹ, sư bèn lập một ngôi chùa đặt tên là Mại Trà Lai tự. Am tranh mẹ từng ở có tên là Dưỡng Mẫu đường, sớm chiều khói hương nghi ngút.
Đó là một trong nhiều câu chuyện trong hành trạng của vị thiền sư Việt Nam đạo phong, liên quan tới hiếu đạo của người xuất gia. Ngài cũng là người sống gần dân, được người dân yêu quý gọi bằng tên mộc mạc là Hòa thượng Cua.
Cách báo đáp thâm ân cha mẹ của Thiền sư Tông Diễn đã lưu mãi trong lòng người, vượt cả thời gian. Hình tượng và hạnh hiếu đó không chỉ lưu truyền trong dân gian mà đã được xây dựng thành hình tượng nghệ thuật, được chuyển thể qua các loại hình sân khấu, làm rung động lòng người nhiều thế hệ.

Thứ Sáu, 22 tháng 7, 2016

Phục Nguyện Các Ngày Lễ!

Quốc dân thạnh trị , Lê thứ an hoà, bất động can qua,thái bình thiên hạ, Thiền môn giáo hoá,phật pháp thịnh hành,bá tánh chúng sanh, Phước điền đồng chủng, tín Tâm tăng trưởng, nghệ nghiệp càng tăng, đủ trăm điều Phước nước lợi dân, đầy muôn thức ấm già no trẻ, văn minh rạng dẻ, phật pháp trường tồn, bá tánh chúng sanh, đồng thành phật đạo!

Từ phụ bậc vô thượng y vương,
Xót thương con trẻ bịnh bày ấn phương,
Như mây vần pháp tánh chân thường,
Thọ mạng vô cùng thật khó nghĩ lường.


+ PHỤC NGUYỆN :
Thần thông cảm ứng,
Diệu dụng thiêng liêng,
Gia hộ cho chúng con :
Biển khổ may gặp từ thuyền,
Đường mê mong lên Pháp giá.
Vượt qua bể cả,
Cùng tận dương dài,
Vui sống dưới bóng kim đài,
An tâm trong vòng bảo thủ. (1)
Viên thông giáo chủ,
Tự Tại Quán Âm,
Chúng đẳng thành tâm,
Một lòng tán tụng.
Nam mô A Di Đà Phật. (đồng hòa)




Các bậc tổ tiên ông bà cha mẹ quá cố trong bảy đời qua.
Cùng với thân nhân quyến thuộc, hàng trăm ngàn chiến sĩ trận vong trên mọi nẻo đường đất nước, hài cốt chôn vùi chưa biết phải tìm đâu.
Hàng triệu đồng bào nạn nhân của đạn bom hoặc không may đã bỏ mình trên bước đường chiến tranh lánh nạn.
Tất cả những ai đã phải chết dần mòn trong các nơi giam hãm.
Tất cả những thuyền nhân thiệt mạng làm mồi cho rồng cá hoặc trở thành nạn nhân của hải tặc sau khi đã lênh đênh trên biển cả lâu ngày.
Cùng tất cả các oan hồn uổng tử khắp nơi, không phân biệt già trẻ, gái trai, bắc nam, chủng tộc, tôn giáo và chánh kiến.
Nguyện nhờ ơn đức Phật, Pháp và Tăng, nương tựa chân ngôn. Giờ phút này đây trở về phó hội tham dự đàn chay,  nghe kinh chuyển hóa hưởng nguồn Cam lộ.

Kính nguyện : Từ bi vô lượng, phước trí vô biên, hạnh giải châu viên, xa rời trần cấu. Không ưa tranh đấu, chẳng thích hơn thua, bỏ tánh nô đùa, chuyên tâm tu Thiền quán. Lấy huệ nhựt phá trừ hôn ám, mượn đại bi tẩy sạch tham sân, biến nhục thể thành Pháp thân, mượn Ta bà làm Tịnh độ. Ra tay cứu khổ, phương tiện độ đời, khắp cả mọi nơi, đồng về cõi Phật.


Nguyện cho đệ tử chúng con, tâm đạo vững bền, đường dài không nản, bốn thể khinh an , thân tâm dõng mảnh, dứt hết các bệnh hôn ám , sớm tiêu nghiệp chướng, không nạn, không tai, không ma, không chướng. Chẳng hướng đường tà, thẳng vào chánh đạo, phiền não tiêu diệt, trí tuệ lớn dần, mau ngộ đại sự, nối huệ mạng Phật, độ khắp chúng sanh, báo ân Phật Tổ.
Nguyện đem công đức thọ trì kinh chú, xưng tán hồng danh, hồi hướng siêu độ vong linh:..... vãng sinh ngày... tháng... năm.... tuổi, được vãng sinh Tịnh Ðộ.
Khắp nguyện: người mất siêu thăng, kẻ còn phước lạc. Chúng sanh được thấm nhuần mưa Pháp. Tất cả mọi người đều trọn thành Phật Ðạo


Phục nguyện:Pháp âm phổ chiếu, Phật pháp thân truyền.Sóng từ quang chiếu khắp tam thiên,Trí Bát-nhã soi cùng cửu giới.Chúng sanh thuận lợi tu tiến Bồ-đề.Đặng xa lìa biển khổ sông mê,Đồng chứng đắc liên-hoa Phật quả

Ngưỡng nguyện:
Tam Bảo gia hộ chúng đẳng:
Đoạn dứt nghiệp trần, xa lìa nạn chướng,
Phước duyên tăng trưởng, hạnh nguyện phát sanh.
Khắp chúng viên thành, Bồ-đề vô thượng.Phổ nguyện:Nhân dân cọng lạc, cõi cõi quang huy.
Tăng già truyền bá, cư sĩ hộ trì,
Trăm họ quy y, đồng thành Phật đạo.
Phục nguyện:Phật nhật tăng huy,Chiếu diệu đại thiên sa giới.Pháp luân thường chuyển,
Lưu thông bá vạn nhơn thiên.
Tăng hải hòa bình,
Hạo hạo tông phong vĩnh chấn;Thiền môn nghiêm tịnh,Nguy nguy Tổ ấn trùng quang.Vũ thuận phong điều, dân an, quốc thạnh.Phổ nguyện:
Đồng văn Phật thuyết, đồng diễn Phật âm,
Đồng kiến Phật tâm, đồng thành Phật đạo.Phục nguyện:Phật từ phổ tế, hoằng khai phương tiện chi môn,Xả Phật tương sanh, cứu thoát u đồ chi khổ.Nhứt tâm niệm Phật, vạn tội băng tiêu,
Đắc Đông-độ chi thiện căn, 
Nhập Tây-phương chi thắng cảnh.
Phục nguyện:Thiên kinh thiên Phật,Thùy thiên thủ, thiên nhãn dĩ đề huề.Bá phạn, bá Tăng,Tứ bá trinh, bá tường nhi kiết khánh.
Tư thời: tín chủ… 
Ngọ cúng nhứt diên hồi hướng công đức.Gia môn khương thới, vĩnh vô phiền não chi xâm;
Tứ đại điều hòa, thường hưởng thanh ninh chi phước.
Phục nguyện:
Giáo lưu Đông-chấn, pháp ấn tam thiên.
Văn-Tư-Tu tam học hiện tiền,
Tín-Hạnh-Nguyện cửu liên tiếp dẫn.Thứ nguyện:Tẩy không tam nghiệp, tăng trưởng nhị nghiêm,
Tăng tấn lục thời, viên minh lục độ.
Duy nguyện:Phàm tình khấu đáo, ứng niệm hiện tiền.Duy niệm hồng từ, ai bi nhiếp thọ.Phổ nguyện: Đệ tử chúng đẳng,Đồng minh Phật lý, đồng thể từ bi,Đồng niệm A-Di, đồng thành Phật đạo.
Phục nguyện:Thần thông cảm ứng, độ tam thiên thế giới chi trung,Trí-huệ viên minh cứu bát vạn trần lao chi hạ.Hữu cầu tất ứng, vô nguyện bất thành.Kỳ nguyện:Đệ tử chúng đẳng:
Lục căn thanh tịnh như cảo nhật dĩ đương không,
Lục thức viên minh tợ thu hiềm như ảnh thủy.Lục xúc, lục thọ câu thời Bát nhã chi nhơn,Lục ái, lục trần dụng nhập viên minh chi quả.Phổ nguyện:Đồng minh Phật lý, đồng ngộ Phật tâm,Đồng nhập pháp môn, đồng thành Phật đạo.

Phục nguyện:Trí quang tịch chiếu, vĩnh vô tam giới chi Đạo sư.
Bi nguyện hoằng thâm, phổ tác tứ sanh chi Từ-phụ.
Đơn thân cung bắc, tố thử hòa nam.
Tư thời …
Phổ nguyện:Đàn na công quả, nhứt lộ phước tinh,Pháp giới chúng sinh, tề thành Phật đạo.Phục nguyện:Nguyện Phật hộ trì, âm dương hai cảnh,
Người còn khỏe mạnh, kẻ thác siêu sinh,
Bốn phương hưởng cảnh thái bình,
Tám hướng vui miền Cực-lạc.
Sống không tật bệnh, thác đặng khinh an.Về Tây phương ngồi tựa sen vàng,
Qua Bảo-địa vui chơi lầu ngọc.
Sớm tiêu trần tục, mau chứng chơn thường.Khắp cả mười phương, đồng như chư Phật.Phổ nguyện:Đệ tử chúng đẳng:
Kiến văn đồng liễu ngộ, 
Tài pháp tổng nan văn,
Ngã đẳng dữ chúng sanh, 
Giai cọng thành Phật đạo.Phục nguyện:
Lục độ vi tâm, Phổ thị vô biên chi phương tiện.
Nhị nghiêm thành tánh,Quảng khai bất nhẫn chi pháp môn.Phổ nguyện:
Kiến văn tùy hỷ, khải phát đạo tâm,
Giới thể trang nghiêm, đồng thành Phật đạo.Phục nguyện:
Chơn không trạm bổn, vô sanh diệt chi thù,
Sắc thể hoàn tất, hữu Niết-bàn chi vị.Duy nguyện:
Như Lai mẫn thế, cảm ứng vô sai.
Quang giáng đạo tràng, chứng minh công đức.
Kim thời đệ tử chúng đẳng:
Chí thành sám hối chi huyền văn,Đảnh lễ kim thân chi diệu tướng.
Nguyện đệ tử chúng đẳng tiêu tội chướng,
Thân chứng Bồ Tát quả hiện tiền.Phổ nguyện:
Đồng văn Phật thuyết, đồng diễn Phật âm,
Đồng ngộ Phật tâm, đồng thành Phật đạo.
Phục nguyện:
Thượng hoằng Phật đạo, hạ hóa chúng sanh,
Hiển phát Như Lai, hưng long Tam Bảo.Hoằng thông đại thừa, tịnh Phật quốc độ.Thành tựu chúng sanh, Tát-Bà-Nhã quả.Phổ nguyện:Thiền môn nội ngoại, phước thọ tăng longThiện tín lục thân, khương ninh kiết khánh.
Phật đường hưng thạnh, địa lợi nhơn hòa,
Tự giác, giác tha, tề thành Phật đạo.Phục nguyện:
Thích-Ca thị lục niên chi khổ hạnh viên thông,
Giáo chủ mãn nguyệt kim dung kiền thành đảnh lễ.
Kim thời đệ tử chúng đẳng:
Dị khẩu đồng âm, xưng dương Phật hiệu.Duy nguyện:Đại từ đại lực, Tịnh độ năng nhơn,
Hóa độ tứ chúng, giới luật trang nghiêm.
Tu hành thanh tịnh, ngộ chứng chơn thường,Nhất thiết thập phương, đồng quy ngưỡng Phật.Thứ nguyện:Đệ tử chúng đẳng:Thân tâm thư thái, hoặc chướng duyên trừ,Tức niệm tinh thành, huệ căn tăng trưởng.Hiện sinh lợi lạc, lai thế siêu thăng,
Gia đạo hưng tồn, tông phong đỉnh thịnh.
Phổ nguyện:Vạn gia sanh Phật, thế giới hòa bình.Vạn ức chúng sanh, đồng đăng giác ngạn.
Phục nguyện:
Bồ đề thọ trưởng, ảnh giá bá vạn nhơn thiên.
Ưu Bát Hoa khai, hương mãn đại thiên sa giới.
Hương lân cửu tộc, huân triêm pháp vũ chi ân
Chiêu mục tiên linh, cọng phó Liên trì chi hội.Duy nguyện:Tứ sanh đăng ư Bảo địa,
Tam hữu thác hóa Liên trì,
Hà sa ngạ quỷ chứng tam hiền,Vạn loại hữu tình đăng thập địa.Phục nguyện:Đệ tử chúng đẳng:Phát khởi thắng tâm, kiến lập Tam Bảo,Quảng hóa chúng sanh, đồng nhập chánh giác.Niệm báo Phật ân, xuất ly phiền não,Thành tựu chúng sanh, Niết bàn diệu quả.Tu lục hòa kính, đạt tự tại lực,Phát Bồ đề tâm, nhất thiết chủng trí.Thân tâm tịch tịnh, phá diệt vô minh.Hiển phát Như Lai, Lạc-Thường-Ngã-Tịnh.Thứ nguyện:
Ân sư huấn dục, phụ mẫu sinh thành,
Nguyện sinh tiền phước thọ tăng long,Kỳ thân hậu vãng sinh Cực-lạc.Phổ nguyện:Đồng viên tam giác, đồng độ tứ sanh,Đồng nguyện tu hành, đồng thành Phật đạo.Phục nguyện:Tín tâm kiên cố, ngoại chướng vô xâm.Đạo niệm tinh thành, nội ma bất khởi.Diêm Phù bảo mãn, Tịnh độ hiện tiền.Kỳ nguyện:Đệ tử chúng đẳng:Thân tâm thanh tịnh, hoặc chướng duyên trừ.
Phước trí trang nghiêm, tịnh nhơn tăng trưởng.
Tự tha hạnh nguyện, phước huệ song tu,Tốc chứng viên thành, chánh nhơn giải thoát.Phổ nguyện:
Kiến văn liễu ngộ, tốc chứng vô sanh,
Pháp giới hữu tình, tề thành Phật đạo.Phục nguyện:Cám mục kim dung, hiện tứ bát đoan nghiêm chi diệu tướng. Bạch hào sang lạng, phóng bá ức chi bảo quang.Tín thoại ứng ư tư thiệt tướng, khai ư úy vận. Hạnh mộng Thế Tôn giáo pháp, thiệt khát ngưỡng ư thắng tịnh diệu minh.
Ngưỡng nguyện Đại từ, khai mê đồng giác. Hiện chơn diệu tướng, phóng vô lượng quang. 
Nguy nguy liên tọa tác quần sanh, đê đầu lễ kỉnh chi nhi liệp liệp kim dung.
Thị đệ tử chiêm ngưỡng thủ túc chi giáo, quy y tắc tam đồ tận bạt, lĩnh giáo nãi cửu phẩm đốn siêu.
Phổ nguyện:
Phật đức thùy từ, chư Thiên đồng hộ. Đa sanh phụ mẫu, đồng đăng giải thoát chi môn. Lụy kiếp oan thân, cọng chứng Bồ đề chi đạo.
Phục nguyện:Cây Bồ đề cao sồ sộ, dìm dè che mát khắp cả tam thiên. Hoa Ưu Bát nở liền liền rực rỡ thơm tho cùng pháp giới. Nào bổn đạo kẻ qua người lại đều nhờ mưa pháp thắm căn lành. Nào tổ tiên lịch đại, sớm đến Liên trì vào hội thánh.Phổ nguyện:
Cả trăm họ bỏ tà quy chánh,
Suốt bốn loài nhập thánh siêu phàm.
Bao nhiêu phước thiện thảy noi làm,
Tất cả chúng sanh đồng thành Phật đạo.Phục nguyện:Đèn thiền na tỏ rạng,Chuông cảnh tỉnh reo vang.Ba thừa xe pháp chuyển rần rầnSáu thứ hoa trời tuôn rỡ rỡCầu cho chúng sanh đặng phần ăn ởBề sanh nhai hớn hở thêm lênChúc cho nước nhà thêm cuộc mở mangĐời thực tế dân sang giàu mạnh
Khắp trăm họ bỏ tà về chánh
Suốt sáu loài nhập thánh siêu phàm
Bao nhiêu phước thiện hãy nên làm
Tất cả chúng sanh đồng thành Phật đạo.
Phục nguyện:Chùa … trang nghiêm thanh tịnh.
Tăng, tín đồ tinh tấn tu hành.
Tụng kinh … đem dạ chí thành.
Cầu chư Phật ban phước lành cho chúng đẳng.
Nguyện Hộ Pháp hộ Thiền môn thanh tịnh.Cầu nhân dân thánh đức hưởng cảnh nhà an.Tất cả gái trai việc thiện gắng lo làm.
Mau tiến đến con đường Phật quả.
Phục nguyện:
Giáo lưu Đông chấn, gia gia đắc chứng Niết bàn
Pháp diễn Nam bang, xứ xứ cầu mông giải thoát.Hiện tiền đệ tử chúng đẳng:
Nhơn nhơn dõng mãnh, cá cá tinh cần.
Sử kỳ ma chướng nhựt tiêu, thiện căn tăng trưởng.Sanh sanh dữ Phật chi quyến thuộc.Thế thế Bồ tát kết thiện duyên.Phổ nguyện:Đông -Tây minh tứ giáo, Nam-Bắc đẳng thập tôngTội tánh Bổn lai không, tự tha thành Phật đạo. Phục nguyện:(Kỵ Tổ)
Tổ đăng vĩnh chiếu, pháp ấn trùng quang.
Trí tuệ viên dung, phổ độ quần mê chi u ám.Linh thông cảm ứng,hoằng thong bá phước chi lương duyên.
Thượng lai công đức, cung duy …
Từ Lâm Tế chánh tông … thế …Duy nguyện:Huệ kính phân huy, chơn không tán thể.
Bồ đề lâm lý, khai phu giác ý chi hoa.
Pháp tánh hải trung, đản địch tâm trần chi cấu.Trà khuynh tam điện, hương nhiệt nhứt lô.Phụng tống vân trình, tảo quy Tịnh độ.

Phổ nguyện:
Môn đồ tứ chúng, phước huệ song tu.
Âm siêu dương thới, pháp giới chúng sanh,
Tình dữ vô tình, tề thành Phật đạo.

Phục nguyện:
Chơn tâm tự tại, pháp tánh tiêu diêu.
Bất nhập tam thừa, tiện đăng giác ngạn.
Ngộ vô sở ngộ chi pháp,
Chứng vô sở chứng chi môn,
Đản nản nan vong, như như bất động.

Phổ nguyện:
Thiền môn nghiêm tịnh, hải chúng an hòa,
Thượng thiện đăng cửu phẩm liên hoa,
Trung lưu nhập tam thừa diệu quả.
Tục Tăng nhơn ngã, tự tánh bổn không,
Pháp giới chúng sanh, tề thành Phật đạo.


AN VỊ

Phục nguyện:
Vô khứ, vô lai hiển pháp thân chi vi diệu.
Hữu kỳ, hữu thỉnh chương phàm niệm chi kiền thành.
Trí thử chí kính chi thành, nguyện khế bất ngôn nhi cảm.
Tư thời, hiện tiền tín chủ … cung thỉnh bảo tượng Thích Ca …, an vị tại gia đường, tập thử thắng nhơn.

Kỳ nguyện: Hiện tiền
Gia môn hưng vượng, lão thiểu bình an.
Phước huệ tăng long, tùy tâm mãn nguyện.
Cánh ký cửu huyền thất tổ cọng siêu thăng,
Bát nạn tam đồ cầu mông giải thoát.

Phổ nguyện:
Đồng viên tam giác, đồng độ tứ sanh,
Đồng nguyện tu hành, đồng thành Phật đạo.


CẦU AN

Phục nguyện:
Diệu Âm, Quan Thế Âm nhi thần thong cứu khổ
Dược Vương, Dược Thượng chi y pháp độ sanh.
Tỷ bệnh nhơn tánh mạng khương ninh.
Sử oan trái nghiệp căn thuyên giảm.
Hữu tình hữu cảm, nãi thánh, nãi thần,
Ủng hộ bệnh nhơn, tiêu trừ tật bệnh.

Thứ nguyện:
Hiện tiền gia môn bửu quyến, thiết lễ kỳ an đảo bệnh …

Phổ nguyện:
Gia đình hưng thạnh, quyến thuộc đoàn viên,
Pháp giới nhơn thiên, tề thành Phật đạo.


Phục nguyện:
Quan Âm thị hiện, thuyết pháp độ sanh.
Lâm nạn xưng danh, tầm thanh cứu khổ.

Phổ nguyện:
Từ thuyền phổ độ, phước đức vô biên.
Đồng hóa hữu duyên, đồng thành Phật đạo.

Phục nguyện:
Nhứt sanh tội cấu dĩ băng tiêu.
Nhứt thế thiện căn nhi thanh tịnh.
Nhứt tâm giai ngộ hướng nhứt lý chi chơn như,
Nhứt niệm hồi quang chứng nhứt thừa chi diệu đạo.

Phổ nguyện:
Đông, Tây minh tứ giáo, Nam, Bắc đẳng thập tông,
Tội tánh bổn lai không, Tự tha thành Phật đạo.


Phục nguyện:
Huệ tâm khai lãng, diệu trí viên minh.
Tam nghiệp đốn không,
Kiếp kiếp hiện hoa hương Ưu-Bát.
Thiện nhơn trưởng dưỡng,
Thời thời sanh kết quả Bồ-đề.
Cánh ký cữu huyền thất tổ cọng siêu thăng,
Bát nạn tam đồ cầu mông giải thoát.

Phổ nguyện:
Oán thân bình đẳng, hàm thoát khổ luân,
Nhơn dữ phi nhơn, đồng thành Phật đạo.

Phục nguyện:
Quan Âm cứu khổ, Bồ tát độ sanh.
Nguyện độ tha giải thoát chí thành,
Kỳ tế chúng bệnh căn thuyên giảm.

Kỳ nguyện:
Tín chủ hiện tiền, tật bệnh tiêu trừ,
hậu nhựt bình an khương thới.

Phổ nguyện:
Gia đình hưng thạnh, quyến thuộc đoàn viên,
Pháp giới nhơn thiên, tề thành Phật đạo.


KỲ SIÊU
(giác linh)

Phục nguyện:
Tông phong vĩnh chấn, Tổ ấn trùng quang,
Thọ Phật-Đà khai thị đạo tràng,
Thừa Tổ đức thế gian hóa độ.
Kim vì Từ Lâm Tế Chánh Tông …,thế … húy… chí … ư … niên … ngoạt … nhựt … thời tân viên tịch.
Đệ tử chúng đẳng:
Báo Tôn sư huấn dục chi ân,
Đáp công đức độ tha chi nghĩa.
Ngưỡng nguyện hồng ân chư Phật giáng lâm, phóng đại quang minh, hiện tràng phang tiếp dẫn Giác linh, nương bảo cái vãng sanh Tịnh độ.

Phổ nguyện:
Chơn linh bất muội, tam nghiệp đốn không,
Thoát nhơn gian sinh tử căn trần, 
Nhập Như Lai bảo minh không hải.
Thế thế thường hành Phật đạo,
Sanh Sanh đốn ngộ chơn thường.
Tồn ích thập phương, tề thành Phật đạo.


Phục nguyện:
Chơn tâm tự tại, giác tánh tiêu dao,
Bất nhập tam thừa, tiện đăng giác ngạn.
Ngộ vô sở ngộ chi pháp, chứng vô sở chứng chi môn.
Đản đản nan vong, như như bất động.
Thượng lai huân tu công đức, phụng vì tân viên tịch … đường thượng, Từ Lâm Tế Chánh tông …thế, húy … thượng … hạ … hiệu … đại lão Hòa Thượng chi giác linh.

Ngưỡng nguyện giác linh, cao đăng Phật quốc,
Hoàn lai Ta bà, hóa độ chúng sanh.

Phổ nguyện:
Chơn tâm tự tại, bản tánh viên minh,
Bất nhập luân hồi, đồng đăng giác ngạn.
Đàn na sung thịnh, đạo đức quang minh,
Pháp giới chúng sinh, đồng thành Phật đạo.


Phục nguyện:
Thần hồn trong suốt, tâm thức nhẹ nhàng.
Nghe tiếng kinh giác ngộ trần gian,
Nhờ Phật lực thoát vòng mê nghiệp chướng.
Sen chín phẩm sanh về bực thượng,
Phật mười phương tiếp ở phương Tây.
Nguyện hương linh … mau đặng an lành,
Nghe kinh kệ siêu sanh Tịnh độ.
Vượt qua bể khổ, thoát khỏi Ta bà,
Sen vàng chín phẩm trổ hoa,
Pháp thân hiện đức Di-Đà thọ ký.


Phục nguyện:
Nhứt linh thừa Phật lực,
Nhị vong vãng Lạc bang
Tam văn thuyết pháp chi âm,
Tứ chứng bồ đề chi quả.

Phục nguyện:
Thần đăng An Dưỡng, nghiệp tạ trần lao.
Liễu sinh tử chi mê đồ,
Chứng Niết bàn chi diệu tánh.

Phục nguyện:
Nhứt linh liễu ngộ, tam nghiệp đốn không,
Xuất Đông độ chi tân lương,
Nhập Tây phương chi thắng cảnh.

Phục nguyện:
Thích Ca Từ phụ, thùy bảo thủ dĩ đề huề.
Di Đà đạo sư, phóng hào quang nhi tiếp dẫn.

Kỳ nguyện: hương linh …
Thoát ly khổ hải, Cực lạc siêu thăng,
Kỳ tang quyến lão thiếu nữ nam hàm mông tỷ hựu.

Phổ nguyện:
Đại đạo chúng trí bi thành tựu,
Sanh sanh hoằng bất diệt pháp môn.
Bảo gia cư lan quế tử tôn,
Miên miên hưởng vô biên phước quả.
Tục Tăng nhơn ngã, thọ bá tuế ư hàm linh.
Pháp giới chúng sinh, tề thành Phật đạo.

Phục nguyện:
Nhứt linh bất muội, giác tánh thường minh.
Văn ngọc kệ dĩ u du, thính kim kinh nhi giải thoát.

Phục nguyện:
Liên trì giáo chủ, Tịnh độ năng nhơn, thư kim sắc thí dĩ đề huề, phóng ngọc hào quang nhi tiếp dẫn. Phục vì vong …

Kỳ nguyện: vong linh…
Thần thê Tịnh vức, nghiệp tạ trần lao.
Liên khai cửu phẩm chi hoa,
Phật thọ nhất thừa chi ký.

Phổ nguyện:
Tang môn hiếu quyến, phước thọ khương ninh,
Pháp giới chúng sinh, tề thành Phật đạo.



Phục nguyện:
Di Đà tiếp dẫn, Địa Tạng lai nghinh, thơ kim sắc thí dĩ đề huề, phóng ngọc hào quang nhi tiếp dẫn.
Phục vì hương linh …

Kỳ nguyện: hương linh,
Thừa tư Phật lực, tứ thánh đề huề.
Hiện Đông lai chi lâu các, vạn thần vệ hộ,
Ứng Tây khứ chi tràng phan, yểm ánh không trung.

Phổ nguyện:
Nhĩ văn thiên nhạc, mục đổ Phật quang,
Tốc vãng Tây phang, tảo thành Phật đạo.

Phục nguyện:
Nhứt linh bất muội, lục dục đốn không,
Vĩnh thoát nhân gian sinh tử căn trần,
Đốn nhập Như Lai bảo minh không hải.
Quan Âm tác bạn, Thế Chí vi bằng,
Thất trùng hang thọ dĩ tiêu diêu,
Bát đức trì trung than tẩy đản,
Cửu liên đài bản nhậm tiêu dao,
Thần thê Tịnh vức, nghiệp tạ trần lao.
Liên khai cửu phẩm chi hoa,
Phật thọ nhất thừa chi ký.

Phục nguyện:
Quan Âm thùy bảo thủ, Thế Chí phóng hào quang,
Địa Tạng trạo từ hàng, Di Đà lai tiếp dẫn.

Kỳ nguyện: vong linh,
Thừa tư Phật lực, kim địa cao siêu,
Nhập Tây phương chi thắng cảnh,
Thế thế thường văn chánh pháp,
Lai sanh cọng chứng chơn thường.


Phổ nguyện:
Nhứt thành thượng đạt, thiên Phật hạ lai.
Tiếp dẫn vong linh trực nhập kim giai,
Kỳ tang quyến hàm triêm lợi lạc.
Âm siêu dương thới, pháp giới chúng sanh,
Tình dữ vô tình, đồng thành Phật đạo.

Phục nguyện:
Vô thượng giác hoàng,
Phóng kim quang nhi tiếp dẫn.
Di Đà từ phụ, thùy bảo thủ dĩ thân nghinh.

Phổ nguyện:
Y Bát nhã Tây phương trực chỉ,
Chứng Bồ đề nhậm ý tiêu dao.
Lục than quyến thuộc, dương thới âm siêu,
Thế xuất thế gian, tề thành Phật đạo.

Phục nguyện:
Thiên Phật thùy quang,
Bãi thủ xuất Ta bà giới nội.
Cửu liên phiêu phúc,
Phiên thân nhập An-dưỡng quốc trung.

Phổ nguyện:
Tục Tăng nhơn ngã, thọ bá tuế ư hà linh,
Pháp giới chúng sinh, tề thành Phật đạo.

Phục nguyện:
Liên trì hội thượng, phóng hạ hào quang,
Tam Bảo đường trung, vũ hoa tiếp dẫn.

Phổ nguyện:
Hiện tiền đệ tử chúng đẳng,
Thường vi từ bi quyến thuộc,
Hộ trì Tam Bảo cửu trụ vô biên,
Nhiêu ích nhơn thiên, tề thành Phật đạo.

Phục nguyện:
Viên thông giáo chủ, mãn nguyệt từ dung,
Thị Di Đà Cực-lạc quốc trung,
Trợ Thích Ca ư Ta bà giới nội.
Xử thiên diệp hồng liên chi tọa,
Cư lưu ly chúng bảo chi sơn.
Quá khứ Chánh Pháp Minh Như Lai,
Hiện tiền Quán Tự Tại.
Tam thập nhị ứng quảng độ quần sanh,
Thất nạn tha phương ứng vật,
Thù thắng diệu lực, tán mạc nan cùng.
Ngưỡng khấu hồng từ, phủ thùy gia hộ.
Tư thời …
Đệ tử chúng đẳng,
Sanh sanh tề Tam Bảo chi cư,
Thế thế ngưỡng chư tôn hộ vệ.
ĐÀN TRÀNG DƯỢC SƯ

Phục nguyện:
Huệ nhựt viên minh chúc thập phương chi thế giới
Trí đăng quang lãng phá đại địa chi hôn mông.
Nhập thập nhị chi nguyện môn,
Việt tam kỳ chi quá hải.
Tư thời … ngã đệ tử chúng đẳng, phùng tân xuân giai tuyệt cảnh thuộc hòa phong, cung thiết đạo tràng Dược Sư ngoại thiền ngũ sắc phan, nội thỉnh Dược Sư bảo sám thất thất tượng. Phúng tụng Dược Sư bảo sám chi huyền văn, đảnh lễ vạn đức kim than chi diệu tướng. Kỳ bảo mãn diêu sanh, nghinh tường tập phước sự.

Kỳ nguyện:
Đệ tử chúng đẳng, nghiệp chướng, báo chướng, phiền não chướng tiêu trừ. Tân duyên, cựu duyên, oan trái duyên, chư duyên giải kết.

Phổ nguyện:
Tự tha bá tánh, Âu Á tứ dân,
Pháp giới oan thân, tề thành Phật đạo.

Phục nguyện:
Thanh liên tòa thượng,, cao đăng cháng giác chi tôn,
Mãn nguyệt cung trung vĩnh chứng Nê-hoàn chi quả.
Từ bi vô lượng, lân mẫn hữu tình.
Khai thập nhị chi nguyện vương,
Độ tam thiên chi thế giới.
Trang nghiêm diễm võng tượng,
Siêu thiên nhật chi quang hoa.
Mãn nguyệt từ dung thể đoạt ma ni chi diễm lệ.
Pháp môn cao diễn, nguyện hải hoằng thâm.
Tư thời … chúng đẳng,
Hương phần giới định, chúc thổ u đàm.
Vong thong Đông chấn chi y vương,
Phúng tụng Tây càn chi diệu điển.
Kỳ nguyện: 
Đệ tử chúng đẳng
Tiền sanh nghiệp chướng tất tiêu diệt,
Kim sanh tội chướng tất tiêu trừ.
Thân ly nạn, nạn ly thân,
Nhất thiết tai ương hóa vi trần.

Phổ nguyện:
Tự tha bá tánh, cọng hưởng thái bình,
Vạn ức chúng sanh, tề thành Phật đạo.

SÁM HỐI

Phục nguyện:
Bách phước tướng hảo chi từ tôn,
Vạn đức trang nghiêm chi diệu thể.

Duy nguyện:
Giác vương thùy từ lân mẫn,
Pháp nhãn viên minh, giám ngu tình chi khẩn thiết.

Thứ nguyện:
Thị tắc ư văn sám hối,
Thành khẩn túc nghiệp vi trừ.
Phổ Hiền giám thử công đức,
Hàm sanh hoan hỷ chi tâm.
Phổ phụng chư Phật thánh hiền,
Xưng dương hồng danh bảo hiệu.


Kỳ nguyện:
Phật đức thùy từ, chư thiên đồng hộ,
Đa sanh phụ mẫu, đồng đăng giải thoát chi môn.
Lụy kiếp oan thân, cọng chứng Bồ đề chi đạo.

Phổ nguyện:
Kiến văn đồng liễu ngộ, tài pháp tổng nan văn,
Ngã đẳng dữ chúng sanh, giai cọng thành Phật đạo.

TRAI TĂNG

Phục nguyện:
Tư thời kim trai chủ…hiệp nam nữ tử tôn đại tiểu đẳng. Cảm phụ mẫu dưỡng dục chi thâm ân, niệm cù lao sinh thành chi trọng đức. Âm dương cách biệt, dị biện thăng trầm, thường hoài luyến mộ chi tâm.
Kim nhựt tư thời đương lâm đại tường trai tuần chi lễ, nhứt nhựt dạ trai tuần viên mãn, hiếu sự châu long. Tang gia hiếu quyến tâm thành, nhứt niệm cụ biện trai nghi, cúng dường trai phạn, hồi hướng công đức, kỳ siêu phục vì vong…

Phổ nguyện:
Hồng từ chứng giám, huệ nhãn diêu huân,
Khắc doãn phàm tình, quảng thi diệu lực.
Tiếp chơn linh chi siêu độ,
Thị Di Đà vu Cực-lạc quốc trung,
Bảo gia quyến dĩ khương ninh,
Hỷ hà linh nhi quang huy thế thượng.
Đa sanh phụ mẫu, lụy thế oan thân,
Pháp giới chúng sanh, tề thành Phật đạo.

Phục nguyện:
Thiên kinh, thiên Phật, thùy thiên thủ, thiên nhãn dĩ đề huề; Bá phạn, bá tăng, tứ bá trinh, bá tường nhi khương thới.
Nguyện vong hồn thừa tư công đức, trực vãng Tây phương, tốc xả mê đồ, siêu sanh Lạc quốc.
Cánh ký cữu huyền thất tổ nội ngoại tôn thân, đa sanh phụ mẫu, thất thế phụ mẫu, tùng tư nhập thánh siêu phàm; lụy thế oan thân, cầu mông giải thoát. Hiện tiền quyến thuộc, phước huệ tăng gia, tồn một triêm ân, lão đồng ngưỡng đức.

Phổ nguyện:
Âm siêu dương thới, pháp giới chúng sanh,
Tình dữ vô tình, tề thành Phật đạo.



Phục nguyện:
Tô đà thiền duyệt, thành tâm lễ hiến hành nhơn;
Tố phẩm gia hào, mỹ ý cúng dường hải chúng.
Sở kỳ truy tiến trai tuần báo hiếu, phục vì vong …, thừ tư Phật lực, âm siêu thiện xứ, dương thới gia môn.

Thiết niệm:
Kính phàm Tăng nhi thánh Tăng giáng phước, phàm thánh nhứt như. Chủng kim thế nhi hậu thế khai hoa, hậu kim đồng đạo. Sự lý như thử, nhơn quả hà thù.

Phổ nguyện:
Hương linh hội nội, tảo đăng cửu phẩm chi đài. Hiện thế môn trung, cọng hưởng thiên thu chi phước. Cô hồn ngạ quỷ, đồng thoát khổ ương, U hiển âm dương, tề thành Phật đạo



QUẢ ĐƯỜNG

Phục nguyện:
Việt Nam giáo hội, bối xuất Tăng tài.
Vạn quốc tòng lâm, chấn hưng Phật học.
Xuất dương Đông-Á, truyền bá Tây Âu.
Duy tâm, duy vật cọng hồi đầu,
Thế xuất thế gian, tề thành Phật đạo.

Phục nguyện:
Thiện căn tăng trưởng, phước quả cao siêu.
Tu tài thí nhi đắc pháp thí phong nhiêu.
Do hảo tâm nhi chứng Phật tâm thanh tịnh.

Phổ nguyện:
Tự tha bá tánh, Âu-Á tứ dân,
Pháp giới oan thân, tề thành Phật đạo.


Phục nguyện:
Nhứt nhơn tác phước thiên nhơn hưởng,
Độc thọ khai hoa vạn thọ hương.
Hiện tiền tu tài thí nhi đắc pháp thí lương duyên,
Do hảo tâm nhi chứng Phật tâm thanh tịnh.

Phổ nguyện:
Quốc gia hưng thịnh, dân tộc trung kiên,
Pháp giới nhơn thiên, tề thành Phật đạo.

Phục nguyện:
Hương mê tố thiện, thành tâm tế cấp ư hành nhơn; Ngọc thực trân tu, phước quả tài bồi ư thí chủ. Công danh bất hủ, phước đức vô biên, Thí chủ hiện tiền, thọ tài sơn nhạc.

Phổ nguyện:
Tứ phương lợi lạc, ngũ cốc phong vinh,
Pháp giới chúng sinh, tề thành Phật đạo.

Phục nguyện: 
Tín tâm sanh đạo thọ,
Giác hoa hương biến ư thiền lâm.
Từ ý diệu đại vân,
Pháp võ ân triêm ư học địa.

Phổ nguyện:
Đồng viên tam giác, đồng độ tứ sanh,
đồng nguyện tu hành, đồng thành Phật đạo.

Phục nguyện:
Tín tâm kiên cố, ngoại chướng vô xâm,
Đạo niệm tinh thành, nội ma bất khởi.

Phổ nguyện:
Diêm-phù bảo mãn, Tịnh độ hiện tiền,
Pháp giới nhơn thiên, tề thành Phật đạo.


Phục nguyện:
Nhơn gian cổ phước, thiên hạ hồi đầu.
Nội minh nhất niệm khách trần,
Ngoại đạt tam không Phật pháp.

Phổ nguyện:
Đồng minh Phật lý, đồng kiến Phật tâm,
đồng chứng Phật thân, đồng thành Phật đạo

Phục nguyện:
Thiền môn giáo hóa, Phật đạo thạnh hành,
Bá tánh chúng sanh, phước điền chung hưởng.
Tín tâm tăng trưởng, phước quả vô biên,
Tín chủ hiện tiền, thọ tề sơn nhạc.
Tứ phương lợi lạc, ngũ cốc phong vinh,
Pháp giới chúng sanh, tề thành Phật đạo.



Phục nguyện:
Tỳ ni tạng trụ, Phật pháp thế thế trường tồn.
Giới luật kiên trì, Tòng lâm thời thời hưng thạnh.

Phổ nguyện:
Thập phương đàn tín, cọng hưởng thái bình,
Pháp giới hữu tình, tề thành Phật đạo.

Phục nguyện:
Tông phong vĩnh chấn, Tổ ấn trùng quang.
Giác hoa hương biến ư Thiền lâm,
Pháp võ ân triêm ư học địa.

Phổ nguyện:
Đàn na công quả, tăng ích phước điền,
Pháp giới nhơn thiên, tề thành Phật đạo.


Phục nguyện:
Tam tâm bất liễu, nhứt thủy nan tiêu.
Nguyện kỳ quốc giới an ninh, can qua đốn tất.
Phạm sát Tăng Ni, trang nghiêm thanh tịnh.
Đàn việt hưng sung Phật đạo, tu tập đại thừa.
Thứ kỳ cữu huyền thất tổ cọng siêu thăng,
Bát nạn tam đồ cầu mông giải thoát.

Phổ nguyện:
Đàn na công quả, nhứt lộ phước tinh,
Pháp giới chúng sinh, tề thành Phật đạo.

Phục nguyện:
Việt nam củng cố, Phật nhựt tăng huy,
Thiên hạ thái bình, chúng sanh an lạc.

Phổ nguyện:
Nhơn nhơn cọng lạc, cõi cõi quang huy,
Tăng già truyền bá, cư sĩ hộ trì,
Trăm họ quy y, tề thành Phật đạo.

Phục nguyện:
Kim liên diệu thượng, Phật ngự đài tiền,
Pháp giới nhơn thiên, đồng quy ngưỡng Phật.

Phổ nguyện:
Âm siêu dương thạnh, hải yến hà thanh,
Pháp giới chúng sanh, tề thành Phật đạo.

Phục nguyện:
Quốc gia thạnh trị, lê thứ an hòa.
Bất động can qua, thái bình thiên hạ.
Thiền môn giáo hóa, Phật giáo thạnh hành,
vạn ức chúng sanh, tề thành Phật đạo.

Phục nguyện:
Phật nhựt Tăng huy, pháp luân thường chuyển.
Phong điều vũ thuận, quốc thới dân an.
Thiên hạ thái bình, chúng sanh an lạc.

Thứ nguyện:
Hộ pháp hóa dĩ hưng long,
Vệ đạo tràng nhi thanh tịnh.

Phổ nguyện:
Oán thân bình đẳng, hàm thoát khổ luân,
Nhơn dữ phi nhơn, tề thành Phật đạo.

Phục nguyện:
Tín tâm kiên cố, đạo niệm tinh chuyên.
Tùng nhơn đạo nhi tu Bát chánh đạo nhơn duyên.
Xả ái tài nhi đắc thất thánh tài công đức.


Phổ nguyện:
Đàn na tăng phước huệ, thí chủ diệu chánh y.
Pháp giới phổ quang huy, chúng sanh thành Phật đạo.

Phục nguyện:
Tăng già đoàn thể, pháp bảo phổ thông.
Phật đạo viên dung, ngũ châu bành trướng.

Phổ nguyện:
Thập phương xu hướng, cửu giới đầu thành.
Vạn ức chúng sanh, tề thành Phật đạo.

Phục nguyện:
Quốc dân tấn hóa, thế giới hòa bình.
Phật pháp xương minh, dân cư lạc nghiệp.

Phổ nguyện:
Đồng tu tam học, đồng thể từ bi.
đồng niệm A-Di, đồng thành Phật đạo.
Phục nguyện:
Sơn môn chấn chỉnh, hải chúng an hòa.
Bát huyền an hữu đạo chi trường,
Tứ hải lạc vô vi chi hóa.

Phổ nguyện:
Đàn na công quả, tăng ích phước điền,
Pháp giới nhơn thiên, tề thành Phật đạo.

Phục nguyện:
Tam ngoạt kiết hạ, đại chúng an cư.
Phước huệ song nghiêm,
Vĩnh chứng tam thừa chi thánh quả.
Cửu tuần Tăng Ni tu học,
Trang nghiêm giới đức,
đồng sanh cửu phẩm liên hoa.
Tín thí đàn na, tăng viên phước thọ.

Phổ nguyện:
Phật đường hưng thạnh, địa lợi nhơn hòa.
Tự giác, giác tha, tề thành Phật đạo.

Phục nguyện:
Tứ dân đồng hành thập thiện,
Thoát ly kinh tế chi hiểm nguy.
Vạn quốc cọng thân liên,
Hưởng thọ thái bình chi an lạc.

Phổ nguyện:
Đồng viên tam giác, đồng độ tứ sanh,
đồng chí tu hành, đồng thành Phật đạo.



VU LAN THẮNG HỘI

Phục nguyện:
Vu Lan thù thắng pháp, thánh chúng đại oai thần. Tỷ phương phương địa ngục tổng thành không, độ cá cá thiên đường giai tự tại.
Tư thời Nam Diêm Phù Đề, Việt Nam quốc, Phước Nghiêm tự, đệ tử chúng đẳng: Phùng chư Tăng tam ngoạt an cư, cửu tuần tu học.
Thiết niệm, phụ mẫu sanh thành dưỡng dục chi ân, cung lâm phạm vũ, phúng diễn bí chương, xưng dương Phật hiệu, Vu Lan tôn kinh. Tập thử công đức, kỳ siêu cửu huyền thất tổ đa sanh, thất thế quá khứ phụ mẫu, tùng tư nhập thánh siêu phàm. Hiện thế quyến thuộc lục thân, tự thử thừa ân, huân triêm phước thọ. 
Cập kỳ siêu chư hương linh …, thừa tư Phật lực, ngưu đầu phóng xuất, ngục tốt xả thân, tiếp hương linh Cực lạc siêu thăng, kỳ đại chúng hàm triêm lợi lạc.

Phổ nguyện:
Thiền môn hưng thạnh, địa lợi nhơn hòa,
Tự giác, giác tha, tề thành Phật đạo.

Phục nguyện:
Vu Lan thắng hội, vô giá đàn độ quảng thi.
Chẩn tế trai diên, tiến vong linh chi thánh lễ.
Thiên đường kính nể, địa ngục môn khai.
Tiếp chư vong hồn Cực-lạc đáo lai,
Độ tín chủ Ta-bà khương thới.
Vô biên thế giới, địa cửu thiên trường.
Viễn cận đàn na, huân triêm thắng phước.

Phục nguyện:
Vu Lan thù thắng pháp, 
Thánh chúng đại oai thần
Mục Liên ai mẫn cứu từ thân,
Thoát khổ A-Tỳ, siêu sanh Tịnh cảnh.
Phục nguyện:
Ca-Diếp khải đầu đà, trần bồ soạn nhi trai thành chi vị. Mục Liên khai đại hội, thiết Lan bồn nghi thức cúng tam tôn. Vị báo thâm ân, cố tu đàn độ. Thượng lai đệ tử chúng đẳng, phùng Trung nguyên giai tiết, Địa quan xá tội chi kỳ. Y Mục Liên tôn giả độ than chi nhựt, thượng cúng thập phương chư Phật, thứ cúng hiện tiền Đại Đức Tăng già. trượng thử lương nhơn thanh tịnh, quá vãng tiên linh, siêu sinh Tịnh độ. Nguyện chư vong linh thoát ly khổ hải, trực vãng Lạc bang.

Phổ nguyện:
Nam Kha mộng đoạn, Tây vức liên khai,
Siêu thăng Tịnh độ lễ Như Lai,
Tốc thoát khổ luân, tề thành Phật đạo.




KIẾT HẠ AN CƯ

Phục nguyện:
Phước điền đại chúng, bửu điện cao thâm.
Lập hương trường tu học Thiền lâm,
Năng hoằng giáo pháp lưu Đông-độ.

Kỳ nguyện:
Đệ tử chúng đẳng, tam ngoạt kiết hạ an cư, cửu tuần nhiếp tâm tu học. Cận đáo thời Tự tứ, ngưỡng báo đáp Phật ân. đồng phát nguyện nhứt tâm trì Pháp Hoa đại thặng, hồi hướng công đức, báo tôn sư huấn dục chi ân, đáp phụ mẫu sanh thành chi đức. Kỳ quốc thới dân an, nguyện phong điều vũ thuận.

Phổ nguyện:
Đàn na tín thí, tăng ích phước điền,
Pháp giới nhơn thiên, tề thành Phật đạo.

Phục nguyện:
An cư tam ngoạt, nhơn nhơn tấn đạo nghiêm thân. Tu học tứ hoằng, xứ xứ trợ duyên Phật hóa.

Phổ nguyện:
Đàn na công quả, nhất lộ phước tinh,
Pháp giới chúng sinh, tề thành Phật đạo.

Phục nguyện:
Tam ngoạt an cư, vĩnh chứng tam thừa chi thánh quả. 
Cửu tuần tu học, đồng đăng cửu phẩm chi liên hoa.

Thứ nguyện:
Hiện tiền đại chúng, tu học trang nghiêm,
Cửu hữu chúng sanh, câu mông thắng ích.

Phổ nguyện:
Âm siêu dương thạnh, hải yến hà thanh,
Pháp giới chúng sanh, tề thành Phật đạo.

Phục nguyện:
Tam ngoạt an cư, cửu tuần tu học.
Trước Như Lai giải thoát chi y,
nhập Như Lai từ bi chi thất.
Nguyện báo Phật ân, nguyện hành Phật sự.

Thứ nguyện:
Hiện tiền đại chúng, tam thân, tứ trí, lục độ tề tu,
Viên diệu Phật thừa, Bồ đề quả mãn.

Phổ nguyện:
Toàn cầu đồng trực, sa giới minh vương,
cọng khế chơn thường, tề thành Phật đạo.


Phục nguyện:
Nhơn nhơn hành thiện nghiệp,
Thoát ly kinh tế chi dân oai.
Tạo vật hà hữu tai,
Đả đảo thần quyền chi mê tín.

Phổ nguyện:
Phá tà hiển chánh, trừ vọng hiển chơn.
Nhơn dữ phi nhơn, tề thành Phật đạo.



TRUYỀN GIỚI

Phục nguyện:
Nhứt thời tuyên dương giới pháp,
Thượng căn đại ngộ, trung hạ thừa đương,
Lĩnh chứng vô sanh thánh quả.
Bá vạn trần lao, nhứt thời tiệm tiêu ư hải ngoại.

Thứ nguyện:
Chư giới tử giới châu minh tịnh, đạo quả viên thành. Hiện tiền tu chứng vô sanh, một hậu cao đăng thánh vị.

Phổ nguyện:
Tam thừa cọng chứng, tứ quả viên thành,
Pháp giới chúng sanh, tề thành Phật đạo.


Phục nguyện:
Đàn tràng nghiêm tịnh,
Thập phương hiền thánh dĩ đồng hoan.
Pháp sự châu viên,
Chư thượng thiện nhơn giai cọng lạc.
Thừa tư công đức, nhiêu ích tồn vong.
Trượng thử lương nhơn, huân triêm thắng phước.
Nguyện tương dĩ thử thắng công đức,
Hồi hướng Tam Bảo chứng minh.

Phổ nguyện:
Thiền đường tứ chúng, vận thủy ban sài.
Thiện tín vãng lai, đồng thành Phật đạo.

Phục nguyện:
Phật nhựt Tăng huy, chiếu diệu đại thiên sa giới. Pháp luân thường chuyển, lưu thông bá vạn nhơn thiên. Tăng hải hòa bình, hao hao tông

phong vĩnh chấn. Thiền môn an tịnh, nguy nguy Tổ đức quang huy.

Phổ nguyện:
Đồng viên tam giác, đồng độ tứ sanh,
Đồng nguyện tu hành, đồng thành Phật đạo.

Phục nguyện:
Tỳ ni tạng trụ, Phật pháp thế thế trường tồn.
Giới luật kiên trì, Tòng lâm thời thời hưng thạnh.

Phổ nguyện:
Thập phương đàn tín, cọng hưởng thái bình,
Pháp giới hữu tình, tề thành Phật đạo.

HẰNG THUẬN

Phục nguyện:
Quảng thùy tỷ hộ, thường giáng trinh tường. 
Bảo tân hôn cầm sắc hòa hài,
Niên niên hưởng vô biên phước quả.
Tư thời … chư Phật tử cung tựu Phật tiền, tác lễ Hằng thuận công đức, nghinh tường tập phước, Tân lang tánh …, Tân nương tánh …, thừa tư Phật lực, than sanh hoan hỷ, nghiệp hệ túc duyên, hiệp ưng nghi thất, nghi gia, thành liễu hữu tình đồng giải.

Phổ nguyện:
Liên gia bá tánh, thương mại hanh thong,
lợi ích tồn vong, tề thành Phật đạo.

Phục nguyện:
Núi bạch hào uyển chuyển, 
Biển thệ nguyện bao la,
Thả thuyền không đáy (vô để) đến Ta-ba
Rước chúng hữu tình về Cực-lạc. 
Đồng lên bờ giác, cùng thoát bến mê
Viên mãn lời thề, vuông tròn ý nguyện
Vừng hồng Phật nhựt huy hoàng
Tiếng gọi pháp âm vang dội
Trang nghiêm pháp hội
Thanh tịnh tăng đoàn
Sông núi bình an
Nhân dân hạnh phúc.
Phục nguyện:
Đàn na thí chủ,
Tăng ích phước điềnPháp giới nhơn thiên
Đồng thành Phật đạo



Nhất bát thiên gia phạn, Tỳ kheo chung thân cầu đạo nhất thừa. 
Nhất niệm bất sanh, hành giả quyết định nhất sanh bổ xứ. 
Nhất nhật bất tu nhi nhất kiếp thọ khổ luân hồi, 
Nhất nhật bất tác nhi nhất nhật bất thọ cúng dường chi tín thí. 
  
PHỔ NGUYỆN : 
Nhất cú Di Đà vô biệt niệm, nhất sát na khoảnh trực đáo tây phương. 
Nhất sanh sở hệ vạn duyên, nhất đán vô thường tùy nguyệp dẫn. 
Quán nhất thiết giai không, ư không môn nhất nhất chúng sanh giai cộng thành Phật đạo. 
  
  
  
  
Công phu nhị khóa, đạo tràng cầu bất nhị pháp môn. 
Nhị đế dung thông, do Bồ tát ư sắc không vô nhị biệt. 
Tử sanh nhị lộ, đản do bất đoạn ái duyên, 
Kiến chấp nhị biên, chỉ ư bất tu bất học. 
  
PHỔ NGUYỆN : 
Sanh sanh thế thế tu hành, nguyện bất thọ nhị căn, bất năng nhị thiệt, bất kiết nhị duyên, bất tuyên nhị giáo. 
Đệ tử chúng đẳng bất cầu nhị thừa nhân thiên phước báo, đản cầu nhị quả đẳng giác Bồ đề, đắc chứng nhị nghiêm, đáo sanh khổ xứ, độ tận chúng sanh tề thành Phật đạo. 
  
  
  
  
Tam ngoạt an cư, thiền đường lễ Tam bảo, kết tam quy, an trú tam vô lậu học. 
Tam thời thọ thực, đại chúng quán tam đề, niệm tam tâm vị liễu nan miễn tam đồ. 
Dục ly tam giới nội, tam duyên từ thường khởi ư tâm, 
Yếu đoạn tam chướng nạn, tam thừa Thánh quả nguyện thừa đương. 
  
PHỔ NGUYỆN : 
Thí chủ tấn tam đa, đàn na ly tam độc, cầu đắc tam muội, hồi hướng tam miệu tam bồ đề. 
Chúng đẳng hành tam quán, đoạn tam hoặc, chánh niệm tam ma địa, chuyển tam pháp ấn, độ chúng sanh nhi tề thành Phật đạo.

Thứ Ba, 19 tháng 7, 2016

Phục Nguyện Cúng Tổ

Chơn tâm tự tại, pháp tánh tiêu diêu.
Bất nhập tam thừa, tiện đăng giác ngạn.
Ngộ vô sở ngộ chi pháp,
Chứng vô sở chứng chi môn,
Đản nản nan vong, như như bất động
Thiết nghĩ rằng, con tên…trăm kiếp nghìn đời trôi lăn trong dòng sanh tử, may được cạo bỏ tóc râu , được vào cửa Phật , nghĩ ân đức sâu dày thật khó báo đền. Từ những ngày xa vắng chân linh quy tịch, thật là một sự xao động của hải triều; chỉ ngày giỗ hôm nay chúng con nội tự thống thiết nghĩ trời cao khó báo đáp ân sâu. Do đó vân tập chúng lại tụng Kinh nhứt diên bày tỏ chút lòng thành, cúi xin thầy chứng giám.
Lại nguyện, Phật nhựt phóng quang chiếu phá tội chướng đời này, gió từ phủ khắp quét sạch oan khiên kiếp trước; trong khoảnh khắc sanh về Cực Lạc quốc, được ngồi đài liên hoa. Bồ Đề tâm bất thoái, trí bát nhã thường sáng soi.  Toàn thể hiếu đồ đệ tử chúng con chí cúng dường.

Phổ nguyện:
Thiền môn nghiêm tịnh, hải chúng an hòa,
Thượng thiện đăng cửu phẩm liên hoa,
Trung lưu nhập tam thừa diệu quả.
Tục Tăng nhơn ngã, tự tánh bổn không,
Pháp giới chúng sanh, tề thành Phật đạo.

Phục Nguyện Cúng Tổ

Tổ đăng vĩnh chiếu, pháp ấn trùng quang.Trí tuệ viên dung, phổ độ quần mê chi u ám.Linh thông cảm ứng,hoằng thong bá phước chi lương duyên.
Thượng lai công đức, 
chúng con  Kính ôn lại bổn sư ......  tánh người hiền hậu, dứt tuyệt tướng ngã nhơn, nối giòng mô phạm tòng lâm, hạnh giống như Tổ Bách Trượng, đường đường tăng tướng, đức vượt cao phong, truyền tâm đăng đời thứ 41 giòng Lâm Tế; ngón tay vạch mây thấy trăng; nương dấu tích mà hạ sanh hưởng thọ…  năm trong trần thế, đáp tạ trần lao mà quay gót quy thân. Nay gặp ngày húy nhựt, môn nhơn đệ tử chúng con rất trân quý ví như mầm non được thừa ân y bát. Do vậy vân tập chúng tụng kinh… nhứt diên, trải tâm thành trước Từ Tôn bày pháp tịch của nhơn thiên. Nguyện đem công đức này kính mong đền đáp phần nào công ơn trong muôn một.
Lại mong trên đỉnh Linh Thứu trước kia đấng Diệu Giác cao siêu chiếu ánh quang vào cõi này thân thường lạc phi tướng.
 Môn nhơn chúng con chí thành tưởng nhớ. Phật lịch 2560.. ngày… tháng …năm 20