Tìm kiếm Blog này

Chủ Nhật, 14 tháng 10, 2018

Đừng Mang Lửa của Bà Visakha

Đừng Mang Lửa Trong Nhà Ra Ngoài
“Đừng mang lửa trong nhà ra ngoài ”, câu nói gợi nhớ đến vị nữ cư sĩ hộ pháp hàng đầu thời Đức Phật - Visakha (Tỳ Xá Khư). Trong ngày Visakha xuất giá về nhà chồng, Dhanancaya, cha của Visakha đã kêu nàng lại nhắn nhủ con gái mấy điều về cách cư xử và ăn ở bên phía nhà chồng:
- Đừng mang lửa trong nhà ra ngoài,
- Đừng mang lửa bên ngoài vào nhà,
- Chỉ những ai trả nợ mới cho vay mượn,
- Những ai không trả nợ thì không cho vay mượn,
- Cho bà con, họ hàng, bạn bè gặp khó khăn vay dù họ trả hay không trả,
- Ngồi đúng phép,
- Ăn ngon,
- Ngủ kỹ,
- Chăm sóc ngọn lửa gia đình (cha mẹ chồng),
- Tôn kính lễ bái gia thần (tức là cha chồng và chồng).
Trong lúc Visakha đang nghe lời cha dặn dò thì ở phòng bên cạnh, Migara, cha chồng của Visakha (đến để rước dâu) cũng nghe lén được những lời hai cha con nói chuyện. Ngôn từ mà Dhanancaya dùng để dạy con gái thì cũng chỉ có Visakha hiểu, cha chồng nghe thì hiểu lầm, từ đó trong lòng đã để bụng và không thích cô con dâu, nhưng cũng không nói ra vì nể mặt phía gia đình con dâu.
Rước dâu về, Migara đãi đằng khách khứa suốt tuần lễ và mời rất đông đạo sỹ lõa thể phái Ni Kiền Tử đến tham dự, vì ông ta là tín đồ thuần thành của giáo phái này. Ông ta kêu Visakha đến đảnh lễ các “A la hán”. Visakha, đã chứng quả Nhập lưu lúc lên bảy tuổi khi nghe Đức Phật thuyết pháp, vừa nghe đến từ A la hán thì hớn hở vui mừng đi đến để đảnh lễ các “A la hán”, nhưng khi đến nơi nàng thấy toàn là các đạo sĩ lõa thể liền nói “Những người không biết xấu hổ này mà gọi là A la hán à! Thật đáng xấu hổ” và bỏ đi, không hiểu tại sao cha chồng lại kêu cô đảnh lễ những người lõa thể như vậy. Các đạo sĩ tức giận trước thái độ và cách cư xử của Visakha, nên bảo Migara hãy kiếm cô con dâu khác và đuổi Visakha đi. Migara không thể đuổi cô con dâu danh giá nên đành an ủi các đạo sĩ.
Từ ngày về nhà chồng, Visakha luôn làm tròn bổn phận dâu con, hầu hạ cha mẹ chồng, chăm sóc gia đình chồng chu đáo, quản lý gia nhân và quán xuyến công việc êm xuôi. Một ngày nọ, cha chồng bực tức do hiểu lầm câu nói của Visakha (Cha chồng con chỉ ăn thức ăn cũ, ý Visakha là cha chồng cô chỉ biết hưởng phước do tiền kiếp để lại chứ không biết tạo phước thiện trong đời hiện tại) nên đuổi Visakha đi, nhưng Visakha khôn khéo xin cha chồng cho vời người tới phân xử đúng sai. Được dịp, trước mặt mọi người, Migara ‘xổ’ luôn chuyện ông để bụng bấy lâu nay, rằng cha con Visakha ích kỷ, ngọn lửa cũng không cho người khác, rằng con gái về nhà chồng mà bảo con lo ăn ngon ngủ kỹ… Visakha giải thích tận tường tất cả, rằng “lửa” mà cha cô nói không phải là ngọn lửa thông thường mà đó là những va chạm, những lời vào tiếng ra phía bên nhà chồng, thì không nên để truyền ra ngoài cho đám gia nhân biết, còn “lửa” bên ngoài đó là những lời chỉ trích, những chuyện bàn tán của đám gia nhân, thì cũng không nên đem vào kể cho cha mẹ chồng và người trong nhà hay, ăn ngon mà cha cô nói là không ăn trước cha mẹ chồng và chồng, đứng hầu một bên khi cha mẹ chồng ăn, ngủ kỹ là quán xuyến công việc nên phải ngủ sau chồng và thức dậy sớm để chuẩn bị chu đáo cho chồng và cha mẹ chồng,…
Sau khi nghe giải thích, cha chồng xin lỗi vì đã hiểu lầm và trách lầm cô con dâu ngoan hiền. Được nước, Visakha  “đòi” ra khỏi nhà và chỉ ở lại với điều kiện là gia đình chồng phải đồng ý cho nàng thỉnh Phật và chúng tăng về nhà cúng dường. Chính nhờ sự khéo léo của Visakha mà hai cha con hiểu nhau, thương nhau, xóa bỏ ranh giới của sự hiểu lầm. Cũng chính nhờ Visakha mà ông Migara biết quy hướng Tam bảo, nghe Phật thuyết pháp chứng quả Dự lưu. Ông vui mừng thốt lên trước sự hiện diện của Đức Phật rằng: “Con gái, từ nay con là mẹ của ta!”. Chính vì vậy mà Visakha còn có tên là Migaramata (mẹ của Migara, Lộc Mẫu).

Chuyện nhà chồng - nàng dâu là chuyện nhạy bén muôn đời. “Chiến tranh” cũng thường hay xảy ra giữa mẹ chồng và nàng dâu, cha chồng và nàng dâu tuy ít xảy ra xung đột hơn nhưng cũng không phải là không có. Nếu con dâu khôn khéo biết lèo lái và hóa giải thì mọi chuyện sẽ êm đẹp, bằng ngược lại, có lẽ sẽ có nhiều chuyện buồn trong gia đình do sự xuất hiện của nàng dâu. Những lời khuyên của từ phụ của Visakha trong ngày xuất giá thật thiết thực và lợi ích. Phận dâu con phải làm sao để giữ cho ngọn lửa gia đình chồng được êm ấm, hạnh phúc; làm sao để duy trì, bảo trì ngọn lửa đúng cách, không đem “lửa” bên ngoài vào nhà và cũng không để “lửa” trong nhà lọt ra bên ngoài như thế thì gia đình mới êm ấm chứ chuyện gì cũng “trong nhà chưa tỏ ngoài ngõ đã hay” hoặc biến nhà mình thành cái “trạm thu phát sóng” thì ngọn lửa hạnh phúc cũng sẽ sớm lụi tàn

45 Mùa An Cư Của Phật

TK. Định Phúc
     Dưới cội cây Bồ Đề (Bodhirukkha), vào ngày trăng tròn tháng Vesak năm 623 TCN, đức Bồ Tát Siddhattha đã trở thành một vị Phật Chánh Đẳng Chánh Giác (Sammāsambuddho) duy nhất và tối thượng nhất trong tam giới này. Từ lúc thành đạo cho đến ngày Đức Thế Tôn viên tịch Níp-bàn dưới tàn cây của hai cội long thọ (Sālā) tại vườn Kusinārā của người Malla, Ngài đã trải qua 45 năm hoằng pháp với 45 lần an cư mùa mưa để đem đem đến con đường giải thoát cho những chúng sanh nào hữu duyên với Chánh Pháp.
      Trong suốt 45 năm đó, Ngài không ở suốt nơi nào trong thời gian lâu, đó là thông lệ ba đời chư Phật, Ngài thường du hành khắp nơi để tiếp độ chúng sanh, đến khi mùa mưa đến thì Ngài cùng với chư Tăng mới an cư tại một địa điểm suốt 3 tháng mùa mưa. Rồi sau đó, khi mãn hạ thì Ngài lại cùng với chư Tăng lại tiếp tục công cuộc hoằng pháp độ sinh.
1. Mùa an cư thứ 1:
     Vào ngày rằm tháng 6, sau khi thành đạo được hai tháng, Đức Phật vận chuyển bánh xe pháp tại vườn Lộc Uyển, ở Isipattana để tiếp độ cho nhóm 5 anh em của Ngài Kiều Trần Như (Koṇḍañña) với bài pháp đầu tiên là bài Kinh Chuyển Pháp Luân (Dhammacakkappavattanasutta). Với bài pháp này, Ngài Kiều Trần Như đã thành tựu được Thánh quả Nhập lưu và xuất gia tỳ-khưu với hình thức “Ehi Bhikkhu!”, trở thành vị Thánh Tăng đầu tiên trong Phật Giáo.
     Vào ngày 16 cho đến ngày 19 tháng 6 thì lần lượt các Ngài Vappa, Ngài Bhaddiya, Ngài Mahānāma và Ngài Assaji cũng đắc được Thánh quả Nhập lưu và cũng được xuất gia bằng “Ehi Bhikkhu!”.
     Sau đó, ngày 20 tháng 6 thì Đức Thế Tôn thuyết bài Kinh Vô Ngã Tướng (Anattalakkhaṇsutta) đến cho 5 vị tỳ-khưu và cuối thời pháp các Ngài đã thành tựu được Thánh quả A-la-hán. Như vậy là chỉ 5 ngày đầu tiên của mùa an cư thứ nhất, Đức Thế Tôn đã thuyết pháp tiếp độ được 5 vị Thánh Tăng đầu tiên để mở đầu cho công cuộc hoằng pháp của Ngài.
     Sau đó, ngài còn tiếp độ cho thanh niên Yasa cùng với 54 người bạn xuất gia và trở thành những vị Thánh Tăng. Như vậy, ngay lúc này trên thế gian đã có được 61 vị Thánh vô lậu xuất hiện.
2. Mùa an cư thứ 2-3-4:
     Sau khi tiếp độ đức vua Bimbisāra (Bình Sa Vương) và tiếp nhận ngôi Tịnh xá Trúc Lâm (Veḷuvanavihāra – ngôi Tịnh xá đầu tiên trong Phật Giáo) gần thành Rājagaha (Vương Xá thành). Và chính tại nơi này, Đức Thế Tôn đã cùng với chư Tăng nhập hạ suốt 3 mùa an cư. Tuy nhiên, chúng ta nên hiểu là không phải Ngài ở suốt nơi này 3 năm, mà ngài chỉ ở suốt 3 tháng mùa mưa thôi rồi Ngài tiếp tục du hành thuyết pháp cho đến khi mùa mưa thì Ngài lại trở về Trúc Lâm Tịnh xá an cư mùa mưa.
3. Mùa an cư thứ 5:
     Đức Phật đã nhập hạ tại ngôi Trùng Các Giảng đường (Kūṭāgārasālā) ở Đại Lâm (Mahāvana) gần kinh thành Xá Vệ (Vesāli). Trong mùa an cư này, Dì mẫu Mahāpajāpatigotamī cùng với 500 Thích nữ đã tự cạo tóc đắp y, đi bộ từ Kapilavatthu đến Vesāli để xin Đức Phật cho nữ giới xuất gia. Ngài đã ban hành 8 trọng pháp (Garudhamma) đến cho Dì mẫu như là sự xuất gia Tỳ khưu Ni của bà. Như vậy, đến mùa an cư này thì hội chúng Tỳ khưu Ni đã xuất hiện, Giáo hội Tỳ khưu Ni đã được thành lập, tứ chúng đã có mặt đầy đủ kể từ đây.
4. Mùa an cư thứ 6:
     Đức Thế Tôn cùng với chúng Tỳ khưu an cư mùa mưa tại núi Maṅkula[1][1][1].
5. Mùa an cư thứ 7:
     Vào mùa hạ này, Đức Phật đã ngự lên cung trời Tāvatiṃsā để thuyết giảng Abhidhamma (Vi Diệu Pháp) cho thân mẫu của ngài, là vị thiên tử ở cõi trời Đâu Suất (Tusita) trong suốt 3 tháng mùa mưa (tính theo thời gian cõi nhân loại). Sau khi nghe xong thời pháp, vị thiên tử đắc được Thánh quả Tu-đà-huờn.
     Mỗi ngày, Đức Phật dùng thần thông hóa hiện ra một vị Phật nữa để thuyết pháp, còn Ngài đi khất thực tại xứ Bắc Cưu Lưu Châu, sau khi khất thực xong thì Ngài trở về Saṅkassa tóm tắt lại những gì Ngài đã thuyết cho Tôn giả Sāriputta nghe. Rồi sau đó Ngài trở lại cõi trời Tam Thập Tam để tiếp tục thuyết pháp.
     Vào ngày mãn hạ, Đức Thế Tôn từ cung trời trở về địa cầu bằng chiếc thang ngọc do Thiên chủ Sakka hóa dựng, bên phải co chiếc thang bằng vàng cho chư thiên và bên trái có chiếc thang bạc cho chư đại phạm thiên. Cổng thành Saṅkassa nơi Phật ngự xuống là một trong số những địa điểm sẽ không bao giờ thay đổi của thế gian này, và tất cả chư Phật đều giáng trần tại đây sau khi thuyết Abhidhamma.
6. Mùa an cư thứ 8:
     Đức Phật đã an cư mùa mưa tại rừng Bhesakala, ở núi Suṃsumāra của xứ Bhagga.
7. Mùa an cư thứ 9:
    Đức Phật an cư tại ngôi chùa Ghositārāma ở Kosambi.
     Thứ hậu Māgandiyā có mối hận thù với Đức Phật vì ngài nói bà “không thể so sánh với con gái của ma vương, Ngài không bao giờ đưa chân dụng tới nàng bởi vì nàng chỉ là một bị chứa đầy 32 thể trược” khi cha mẹ của nàng đưa đến để gả nàng cho Đức Phật. Vì mối hận từ trước, thứ hậu cho mướn côn đồ xỉ vả, mắng chửi Đức Phật khi ngài đi khất thực trong kinh thành. Và sau 7 ngày thì mọi tiếng ồn ào, mắng chửi này đã tự yên lặng.
8. Mùa an cư thứ 10:
     Có hai nhóm Tỳ khưu trong thành Kosambi bất hòa với nhau, Thế Tôn khuyên ngăn không được nên Ngài đi vào rừng Pārileyyaka một mình và trải qua mùa an cư tại đây với sự hộ độ cúng dường của một con voi và một con khỉ.
9. Mùa an cư thứ 11:
     Đức Phật đã ngự đến ngôi làng Ekanāḷā, trong Dakkhinagiri, một ngôi làng theo Bà-la-môn giáo gần xứ Magadha. Ngài ngự đến đây để thuyết pháp tiếp độ cho ông Bà-la-môn Kasibhāradvāja bằng thời pháp với đề tài “cách làm ruộng của Đức Phật”. Sau đó ông xuất gia trở thành vị Tỳ khưu Phật Giáo và chứng đắc được Thánh quả A-la-hán.
10. Mùa an cư thứ 12:
     Theo lời thỉnh cầu của Bà-la-môn Verañja, Đức Phật cùng với chúng Tỳ khưu an cư mùa mưa tại xứ Verañjā. Lúc bấy giờ, nạn đói xảy ra tại xứ này, Đức Phật và chư Tăng phải dùng thức ăn của ngựa do một người buôn ngựa dâng cúng. Và trong mùa an cư này, Tôn giả Sāriputta bạch hỏi Đức Phật về thọ mạng của Giáo Pháp. Thế Tôn đã giảng cho Tôn giả nghe về thọ mạng của Giáo Pháp trong thời các vị Phật quá khứ. Tôn giả bạch xin Phật ban hành giới luật nhưng Thế Tôn đã từ chối lời thỉnh cầu ấy.
11. Mùa an cư thứ 13:
     Mùa an cư này, Đức Phật ngự tại núi Cāliya. Lúc bấy giờ, Tỳ khưu Meghiya là thị giả hầu cận của Ngài[2][2][2]. Một hôm, trên đường đi khất thực trong làng Jantu, Tỳ khưu Meghiya thấy một khu vườn xoài bên bờ sông có khung cảnh hữu tình, khả ái nên muốn đi đến đó để tu tập. Tỳ khưu Meghiya đến bạch xin Đức Phật nhưng Ngài quán thấy duyên lành chưa đến nên Ngài khuyên ngăn 3 lần nhưng Tỳ khưu Meghiya vẫn bỏ đi.
     Tỳ khưu Meghiya quá nóng vội nên lúc độc cư thiền tịnh vẫn không an trú được và quay trở về với Đức Phật. Thế Tôn giảng dạy cho Meghiya về năm pháp để thuần thục tâm giải thoát, là năm pháp diệt trừ tà tư duy, để hỗ trợ cho pháp hành thiền định. Tỳ khư Meghiya vâng lời Thế Tôn và chẳng bao lâu thành tựu được Thánh quả A-la-hán.
12. Mùa an cư thứ 14:
     Mùa an cư này Đức Phật cùng với chư Tăng nhập hạ tại ngôi đại Tịnh xá Kỳ Viên (Jetavana Mahāvihāra) do ông Cấp Cô Độc (Anāthapiṇḍika) kiến tạo gần kinh thành Sāvatthi. Trong mùa an cư này, Sa-di Rāhula tròn 20 tuổi nên được xuất gia Tỳ khưu với Ngài Tôn giả Sāriputta làm thầy tế độ.
13. Mùa an cư thứ 15:
     Đức Thế Tôn cùng với chúng Tỳ khưu nhập hạ tại ngôi chùa Nigrodhārāma, gần kinh thành Kapilavatthu. Ngôi chùa này do đức vua Mahānāma kiến lập để cúng dường và cung thỉnh Đức Phật với Chư Tăng trú ngụ. Cũng được ghi nhận là Đức Thế Tôn chỉ nhập hạ duy nhất một mùa an cư tại quê hương của mình.
     Một sự kiện cũng đáng lưu ý là việc đức vua Thiện Giác (Suppabuddha) vì hận Đức Phật đã bỏ rơi con gái mình (công chúa Yasodharā) và làm cho con trai của mình (Devadatta) đi xuất gia nên vua đã ngăn cản đức phật khi ngài đi khất thực. Do hành động này, vua đã bị đất rút một cách thê thảm và đau đớn.
14. Mùa an cư thứ 16:
     Đức Phật đã ngự tại Aggaḷāva của xứ Āḷavī và đã tiếp độ được dạ xoa Āḷavaka rất hung ác, nhờ Đức Phật tiếp độ và giáo hóa nên dạ xọa thành tựu được Thánh quả Tu-đà-huờn.
15. Mùa an cư thứ 17:
     Mùa an cư này Đức Phật nhập hạ tại Trúc Lâm Tịnh xá (Veḷuvanavihāra) ở thành Rājagaha của xứ Magahda (Ma Kiệt Đà).
16. Mùa an cư thứ 18:
     Thế Tôn nhập hạ 3 tháng mùa mưa ở núi Cāliya.
17. Mùa an cư thứ 19-20:
     Hai mùa an cư liên tiếp, Đức Thế Tôn nhập hạ tại tại Trúc Lâm Tịnh xá (Veḷuvanavihāra).
     Một sự kiện quan trọng xảy ra trong mùa hạ là sự kiện Tôn giả Ānanda chính thức trở thành vị thị giả hầu cận bên Đức Thế Tôn. Suốt 20 năm, Ngài không có vị thị giả cố định thường túc trực để hầu cận nên vào mùa hạ này Thế Tôn cũng đã lớn tuổi (55 tuổi) nên Ngài muốn có một vị thị giả hầu cận phục vụ. Tôn giả Ānanda  trở thành vị Tỳ khưu thị giả của Đức Phật kể từ mùa hạ này trở đi.
18. Mùa hạ an cư thứ 21 cho đến mùa hạ an cư thứ 44:
     Đức Thế Tôn chỉ thường trú tại hai ngôi chùa chính ở Sāvatthi, đó là Kỳ Viên Tịnh xá do ông Cấp Cô Độc cúng dường và ngôi Đông Phương Tự (Pubbārāma) do bà Visākhā cúng dường.
19. Mùa an cư thứ 45:
     Mùa an cư cuối cùng của Đức Thế Tôn là tại ngôi làng Beluva gần kinh thành Vesāli. Trong mùa hạ này Ngài lâm trọng bệnh nhưng vẫn duy trì mạng quyền để tiếp tục công cuộc hoằng pháp độ sinh. Đức Thế Tôn nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa tại đây rồi tiếp tục du hành về nhiều nơi và cuối cùng là Kusinārā để viên tịch Níp-bàn vào ngày trăng tròn tháng Vesak cách đây 2555 năm.
     45 năm, 45 mùa an cư kiết hạ của Đức Thế Tôn đã trải qua. Thời gian qua đi không bao giờ trở lại được nhưng những bước chân của Ngài và chư Tăng trên khắp nẻo đường để thuyết pháp tế độ chúng sanh vẫn lưu lại. Đó là hình ảnh đẹp, tấm gương sáng về một bậc vĩ nhân duy nhất trong tam giới này./.


Con Gái Ông Cấp Cô Độc

Pháp Cú này đức Ðạo sư nói lúc ở tại Kỳ Viên tinh xá, liên quan đến bà Sumanaqa.
Mỗi ngày có hai ngàn Tỳ-kheo thọ thực tại nhà Trưởng giả Cấp Cô Ðộc ở Xá-vệ, và hai ngàn vị tại nhà bà đại thí chủ Tỳ-xá-khư (Visàkhà).
Tại Xá-vệ, ai muốn cúng dường, trước hết đều tìm đến hai thiện tín này. Bạn có thắc mắc lý do không? Giá như có ai hỏi bạn: “Liệu ông Cấp Cô Ðộc và bà Tỳ-xá-khư cúng dường có được nhiều bằng của bạn không?” Và nếu bạn trả lời không bằng, thì bạn có thể để ra một trăm ngàn đồng tiền để lo cúng dường, và dầu vậy, các Tỳ-kheo cũng không hoan hỷ, sẽ thầm thì: “Cúng dường kiểu gì vậy?” Sự thật là cả hai vị thí chủ trên biết tường tận khẩu vị của chư Tăng và biết chính xác việc gì phải làm. Vì vậy, tất cả những ai muốn cúng dường đều mời hai vị này cùng đi. Và nếu thỉnh chư Tăng về nhà riêng thì các thí chủ chẳng thể tự mình lo chu đáo được bằng họ.
Gặp những trường hợp này, Tỳ-xá-khư đâm ra lo lắng không biết ai sẽ thay bà hộ cho chư Tăng. Bà trông thấy đứa cháu nội và chỉ định cô ta thay thế bà. Từ đó, cháu gái bà Tỳ-xá-khư hộ cho chư Tăng tại nhà bà. Còn ông Cấp Cô Ðộc thì chỉ định cô con gái lớn Mahà Subhaddà, cô gái này chăm sóc chúng Tăng như lệ thường, lắng nghe pháp, và sau đó chứng quả Dự lưu. Rồi cô ta kết hôn và đến sống với gia đình chồng. Ông Cấp Cô Ðộc chỉ định cô em là Cullà Subhaddà, và cũng như chị cô chứng quả Dự lưu, và sau đó lấy chồng và đến sống bên nhà chồng. Cuối cùng ông chỉ định cô em út Sumanà. Cô này chứng quả Tư-đà-hàm, nhưng vẫn độc thân. Thất vọng vì không gặp được một người chồng, cô nhịn ăn. Và vì muốn gặp cha, cô cho người mời ông đến.
Ông Cấp Cô Ðộc đang ở trong phòng ăn khi nhận được lời nhắn tin của con gái. Ông đi đến ngay và hỏi:
– Chuyện gì vậy, con gái cưng Sumanà?

Sumanà bảo:

– Em nhỏ hỏi gì?

– Con nói chuyện thật lộn xộn.

– Này em nhỏ, tôi không nói lộn xộn.

– Con sợ hả, con gái cưng?

– Tôi không sợ, em nhỏ.

Cô không nói nữa, chết ngay.

Dầu đã chứng quả Dự lưu, ông Trưởng giả cũng không chịu nổi sự buồn phiền. Nên vừa chôn cất con xong, ông liền đến Phật khóc lóc.

Ðức Phật bảo:

– Này gia chủ, sao ông đến Ta buồn rầu, đầy nước mắt như vậy?

– Bạch Thế Tôn, con gái Sumanà của con đã chết.

– Rồi tại sao ông khóc? Cái chết không đến với mọi người sao?

– Con biết, bạch Thế Tôn. Nhưng con gái con quá hiền lành lương thiện, vậy mà khi chết nó không tỉnh táo, lại nói mê sảng. Thật quá đỗi đau buồn!

– Nhưng này Trưởng giả, con gái út của ông đã nói gì?

– Bạch Thế Tôn, con gọi nó “con cưng Sumanà” và nó trả lời “em nói gì, em nhỏ”; rồi con bảo nó “con nói thật lộn xộn” và nó trả lời “tôi không nói lộn xộn, em nhỏ”… Rồi nó không nói nữa, nó chết.

– Này ông Trưởng giả, con ông không nói nhảm đâu?

– Nhưng tại sao nó trả lời như vậy?

– Chỉ vì ông là “em nhỏ của cô ấy”. Này gia chủ, con gái ông lớn về quả vị tu chứng. Trong khi ông chỉ chứng quả Dự lưu, con ông đã chứng Tứ-đà-hàm. Con gái ông lớn về quả vị tu chứng nên nói như vậy.

– Lý do là vậy sao, bạch Thế Tôn?

– Lý do là Thế, gia chủ.

– Bạch Thế Tôn, giờ nó tái sanh ở đây?

– Ở cõi trời Ðâu-suất.

– Bạch Thế Tôn, khi con gái còn sống ở đây với anh em thân thuộc, nó đi lại vui vẻ, và khi ra đi, nó lại tái sinh cõi phước lạc, an vui.

Ðức Ðạo sư bảo ông Cấp Cô Ðộc:

– Ðúng như vậy, gia chủ! Người chánh niệm, dù tại gia hay xuất gia, đều an vui đời này và đời sau.

Phật đọc bài kệ:

(18) Nay sướng, đời sau sướng,
Làm phước, hai đời sướng.
Nó sướng: “Ta làm thiện”.
Sanh cõi lành sướng hơn.
Kinh Pháp Cú

Lễ Lạy

NSGN - Giới luật Phật giáo và đạo đức xã hội tuy có mối quan hệ gần nhau ở một số lãnh vực, nhưng đôi khi không dung hội nhau trong một số chuẩn mực đạo đức đặc thù. Vì lẽ, con đường đạo đức của thế gian và xuất thế gian tuy gần nhau nhưng về cơ bản thì không trùng nhau.
Trong quá trình phát triển, ngay tại quê nhà cũng như du nhập ở một số quốc gia, Phật giáo nói chung và giới luật Phật giáo nói riêng đã gặp phải những thử thách không nhỏ, khi có những quy định trái với cổ tục cũng như thiết định đạo đức của xã hội hiện hành. Việc con cái lễ lạy cha mẹ hoặc ngược lại, có tiền đề tranh luận trong thời Phật tại thế(1), cũng như đã tốn nhiều bút mực, tâm huyết của các nhà Phật học Trung Hoa nhiều thời kỳ.
Ngay tại Việt Nam trong thời gian gần đây, đã xuất hiện sự kiện người xuất gia lễ lạy cha mẹ đã khuất. Vấn đề vừa nảy sinh từ hiện thực, đã tạo cho người viết thao thức về việc cần phải khảo cứu lại những tư liệu liên quan đến việc lễ lạy cha mẹ của người xuất gia, thông qua kinh, luật và điển tịch Phật giáo. Trong giới hạn đề tài, người xuất gia được hiểu là toàn bộ người xuất gia nói chung và lễ lạy theo cách hiểu là năm vóc sát đất ( ).
Tâm, hành người xuất gia từ kinh, luật Nikaya
Người xuất gia là kẻ từ bỏ gia đình, sống không gia đình(2); là con ruột Thế Tôn, sanh ra từ miệng, do pháp sanh, do pháp hóa sanh, thừa tự Chánh pháp(3). Hình ảnh của nhiều con sông khi đổ vào biển lớn thì không còn mang tên, họ của mình là ẩn dụ sinh động khi đề cập đến tính chất không gia đình của người xuất gia được Phật dạy trong kinh Tăng chi: Ví như, này Pahārāda, phàm có các con sông lớn nào, ví như sông Hằng, sông Yamunā, sông Aciravatì, sông Sarabhū, sông Mahī, các con sông ấy khi chảy đến biển, liền bỏ tên họ cũ trở thành biển lớn. Cũng vậy, này Pahàràda, có bốn giai cấp: Sát-đế-lỵ, Bà-la-môn, Phệ-xá, Thủ-đà, sau khi từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia trong Pháp và Luật được Như Lai tuyên bố, họ từ bỏ tên và họ của họ từ trước, và họ trở thành những Sa-môn Thích tử(4).
 Như vậy, kể từ thời điểm được xuất gia theo Chánh pháp và đúng như pháp, thì tất cả những yêu cầu, những hệ lụy, những quy định của xã hội, những chuẩn mực đạo đức của gia đình… người xuất gia đã giảm bớt sự vướng bận, quan tâm. Sự kiện Tôn giả Sangamāji đã có gia đình rồi mới xuất gia, người vợ không hiểu đạo, đem con giao cho tôn giả, tôn giả không đoái hoài làm cho người vợ phải ôm con trở về, được Phật tự kể lại qua những vần kệ sống động trong kinh Phật tự thuyết: Không hoan hỷ, nàng đến/ Không sầu muộn, nàng đi/ Giải thoát khỏi ái phược/ Là Sangamàji/ Ta gọi người như vậy/ Là vị Bà-la-môn(5). Có thể câu chuyện không mang nhiều tính nhân văn theo quy chuẩn xã hội, nhưng qua đó đã cho thấy tính chất thong dong, không bị trói buộc của người xuất gia, cho dù đó là quan hệ máu mủ, ruột rà.
Với người xuất gia, phẩm vị được khẳng định ở giới hạnh chứ không phải ở tuổi tác. Có thể đầu xanh tuổi trẻ nhưng vẫn được tôn trọng cung kính, bởi lẽ có khi ẩn đằng sau vóc dáng con trẻ là phẩm vị đạo đức cao cả thiêng liêng. Trường hợp Tôn giả Lakuntaka được ghi lại trong Tích truyện Pháp cú đã minh chứng cho trường hợp này. Đức Phật dạy: Ta không gọi người nào là trưởng lão chỉ vì họ già, vì họ ngồi ở ghế trưởng lão, nhưng người nào thấu đạt chân lý, và đối xử tốt với người khác, người ấy là Trưởng lão(6). Hơn thế nữa, trong kinh Tương ưng, Đức Phật dạy đức vua Kosala không nên khinh thường vị Tỳ-kheo nhỏ tuổi(7), vì phẩm vị đạo đức và tầm mức trí tuệ quan trọng hơn niên cao, tuổi tác. Trong luật tạng thời Phật cũng thiết định: Này các Tỳ-kheo, ta cho phép việc đảnh lễ, việc đứng dậy chào, hành động chắp tay, hành động thích hợp, chỗ ngồi tốt nhất, nước uống tốt nhất, vật thực tốt nhất tính theo thâm niên(8) (Hạ lạp - NV).
Trong vấn đề thể hiện sự cung kính đối với hàng xuất gia, thì câu chuyện hoàng thân Sakya và vương phụ Suddhodana thể hiện sự cung kính với Đức Phật là một sự kiện chấn động. Theo Chuyện tiền thân số 547(9), trong chuyến về thăm quê hương Kapilavastu sau khi thành đạo, khi các vị hoàng thân quốc thích lớn tuổi muốn ra chào Ngài, nhưng vẫn còn ái ngại vì chưa quen việc thể hiện sự cung kính với một người trẻ tuổi như Đức Phật. Mãi đến khi Đức Phật thi triển các dạng thức thần thông, thì sự ái ngại đó được xóa tan và ngay cả phụ vương Suddhodana cũng thể hiện sự cung kính, mà ở đây là lễ lạy đối với Đức Phật. Cũng ngay trong bản kinh vừa nêu, phụ vương Suddhodana thừa nhận rằng, đây là lần thứ ba ngài đảnh lễ Đức Phật. Theo ngài, hai lần trước đó là khi thái tử vừa chào đời và lúc thái tử nhập định trong lễ Hạ điền. Chi tiết này còn được phát hiện trong luật Thiện kiến (善見律)(10).
Có thể hàng đệ tử xuất gia của Đức Phật còn lâu mới được như Ngài, thậm chí đôi khi còn bị mẹ mắng xối xả như câu chuyện của ngài Xá Lợi Phất(11). Tuy nhiên, theo quan điểm của Đức Phật, người cư sĩ dù chứng Thánh nhưng vẫn phải đảnh lễ, cúng dường phàm tăng. Vì lẽ, các vị phàm tăng tuy hư hỏng, khuyết tật nhưng họ vẫn đang trong tăng tướng và phẩm mạo cao thượng; họ đang đi trên con đường phạm hạnh, họ ăn một bữa, họ thiểu dục, tri túc; họ thường sống nơi tịch mịch, xa chỗ huyên náo ồn ào, xa chỗ ngũ dục thấp hèn!... Còn ta là gì? Ta là cư sĩ áo trắng, dù đắc quả Tu-đà-huờn, nhưng ta vẫn có gia đình với vợ và con, bạc tiền, của cải, danh vọng, địa vị, nghề nghiệp nuôi sống. Ta không cắt móng tay, không cạo râu tóc, vẫn trang điểm, vẫn thoa vật thơm, y phục lành tốt, thọ hưởng ngũ dục, ăn ngon, mặc ấm, giường cao, nhà rộng v.v... Chỉ nguyên nhân ấy thôi, ta đã phải lễ bái, cúng dường đến các ngài rồi. Huống hồ các ngài, chư phàm tăng ấy còn có khả năng dạy giáo pháp, truyền giới luật cho người tại gia, người xuất gia? (12). Đây là một quan điểm cực kỳ táo bạo. Quan điểm  này cũng được khẳng định tương tự bằng câu chuyện về nữ cư sĩ Mātikamātā được ghi lại trong Tích truyện Pháp cú. Theo văn kinh, mặc dù đã chứng đệ tam thánh quả A-na-hàm nhưng cư sĩ Mātikamātā vẫn phụng cúng cho sáu mươi vị phàm tăng bốn món cần dùng suốt mùa an cư kiết hạ(13). Từ đây, có thể thấy, người xuất gia mang hình bóng của Tam bảo thì được cư sĩ tại gia phụng kính. Vì Tăng không phải là cá nhân mà là đoàn thể, là ngôi vị tôn quý thứ ba trong Tam bảo. Và, Tam bảo là đối tượng tôn thờ tối thắng, không thể vượt qua và không có ai cao hơn ngôi vị Tam bảo.
Về cách thức thể hiện lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ, trong một số trường hợp, Đức Phật vẫn cho phép người xuất gia nuôi dưỡng cha mẹ của mình trong điều kiện khả dĩ. Đây chỉ là giải pháp mang tính tình thế, riêng lẽ, nhằm giúp cho một vài vị Tỳ-kheo trong hoàn cảnh vừa nêu không phải trở lui đời sống thế tục, mà vừa có thể tu tập, vừa có thể chăm lo cha mẹ của mình(14). Về phương diện người xuất gia thể hiện lòng hiếu tháo đối với đấng sanh thành, kinh điển Nikaya chỉ nhấn mạnh lấy việc tu tập, chuyển hóa của bản thân, xem đó là một trong những cách thức báo hiếu tối ưu dành cho cha mẹ.
Với những người thân đã khuất, tâm trạng u buồn, khổ đau không phải là thái độ của một người cư sĩ đúng mực. Từ các câu chuyện Tiền thân Đức Phật số 352, 354, 449, chuyện nàng Kisa Gotami (Theri 143), nàng Patacara (Theri 134)… đã cho thấy Đức Phật có một cái nhìn bình thản trước lẽ thường sanh tử. Ngài kêu gọi hàng đệ tử nên có một quan điểm thấu đạt về sự thực vô thường, vô ngã, buông xả mọi chấp trước trước thực trạng sanh tử biệt ly. Cơ sở vững chắc nhất về quan điểm này là thái độ trầm tỉnh, bình thản của Đức Phật khi Ngài tuần tự kể lại 547 câu chuyện về tiền thân của mình cũng như của các đệ tử.
Từ cơ sở này có thể thấy, đối với cha mẹ, anh em, thân tộc quá cố… kinh điển Nikaya đề cập nhẹ nhàng, không cổ súy hoạt động cúng kiếng, tế tự người thân. Thậm chí, đối với thân xác còn lại của Như Lai sau khi diệt độ, Đức Phật cũng chỉ dạy rằng, các thầy xuất gia đừng quá bận tâm hay băn khoăn lo lắng, vì theo Ngài, việc ấy là phận sự của hàng tại gia cư sĩ. Lời dạy thống thiết trong đêm Đại diệt độ đã minh chứng cho quan điểm này: Này Ananda, các Ngươi đừng có lo lắng vấn đề cung kính thân xá-lợi của Như Lai. Này Ananda, các Người hãy nỗ lực, hãy tinh tấn hướng về tự độ, sống không phóng dật, cần mẫn, chuyên hướng về tự độ. Này Ananda, có những học giả Sát-đế-lỵ, những học giả Bà-la-môn, những học giả gia chủ thâm tín Như Lai, những vị này sẽ lo cho sự cung kính cúng dường thân xá-lợi của Như Lai(15). Từ lời căn dặn này, Bà-la-môn Dona cũng như dân chúng Mala đã đóng vai trò chính trong việc hỏa táng cũng như phân chia xá-lợi của Đức Như Lai sau lễ trà tỳ.
Theo kinh văn Nikaya, người xuất gia luôn có một vị trí tối thắng. Với khảo sát bước đầu, chúng tôi chưa phát hiện bất cứ một tư liệu nào yêu cầu hàng xuất gia phải cung phụng, lễ bái hàng tại gia, dù đó là cha mẹ hay quân vương, mà còn phát hiện nhiều điều ngược lại. Có thể sự tinh nghiêm, trong sạch của đại đa số chúng xuất gia trong thời kỳ đầu, đã làm cho chúng tại gia dễ dàng chấp nhận và tuân phục theo những bổn phận mà Đức Phật đã quy định cho hàng cư sĩ. Hơn nữa, nghi lễ đời người thời Phật cũng rất giản đơn vì theo quan điểm của Đức Phật, cái chết chỉ là kết thúc một chặng ngắn của hành trình dài. Chết và sẽ tái sanh là niềm tin phổ biến trong chúng xuất gia và kể cả hàng tại gia cư sĩ. Vì vậy, vấn đề người xuất gia lễ lạy cha mẹ khi còn sống hay trong tang nghi không có mặt trong kinh điển thuộc văn hệ Nikaya.
Người xuất gia lễ lạy cha mẹ theo kinh điển Bắc truyền
Từ sự quy định của quân vương và tự nảy sinh trong hiện thực đời sống, sự kiện người xuất gia lễ lạy cha mẹ xuất hiện trong Phật giáo Trung Hoa ở nhiều thời kỳ. Tư liệu về thể tài này được bảo lưu rất phong phú và sinh động trong Đại tạng kinh Đại chính tân tu (ĐTKĐCTT). Người viết tiếp cận vấn đề dựa trên nguồn tư liệu này. 
1- Chiếu lệnh và kháng thư
Vấn đề yêu cầu người xuất gia lễ lạy cha mẹ, lễ kính các đối tượng vương quyền và các ý kiến phản đối của Tăng nhân được tập hợp trong Tập Sa-môn bất ưng bái tục đẳng sự (   ) thuộc tập 52 mang số hiệu 2108 trong ĐTKĐCTT. Đây là một tác phẩm gồm sáu quyển, là sự tổng hợp phong phú các dạng Sắc, Chiếu, Lệnh… của vương quyền như: Kim thượng chế Sa-môn đẳng trí bái quân, thân sắc ( );  Tống Hiếu Vũ Đế ức Sa-môn trí bái sự ( ); Kim thượng đình Sa-môn bái quân chiếu ( )… cùng các kháng thư thể hiện qua các dạng văn bản như Khải, Biểu, Thư, Nghị Trạng… của các Tăng nhân và Đạo sĩ xuyên suốt nhiều thời kỳ. Theo tác phẩm Tập Sa-môn bất ưng bái tục đẳng sự, các vị vương quan yêu cầu Sa-môn quỳ lạy rất đông đảo, từ Hán Thành Đế, Hàn Huyền, Hiếu Võ Đế, Hách Liên Bột Bột, Tề Vũ Đế, Tùy Dạng Đế, Thượng Quan Nghi… Yêu cầu đó đã gặp phải sự phản ứng mạnh mẽ của Đạo sĩ và Tăng nhân. Có thể điểm qua những Tăng nhân có kháng thư tiêu biểu như Lô Sơn - Tuệ Viễn, Thích Ngạn Tông, Oai Tú, Đạo Tuyên, Linh Hội, Hội Ẩn, Huyền Phạm, Tĩnh Mại, Sùng Bạt…
Từ nội dung sắc chỉ của các vương quan, có thể nhận ra cơ sở nền tảng của lý lẽ Sa-môn phải lễ lạy vương quyền và cha mẹ dựa trên những chuẩn mực đạo đức của Nho gia như Lục thuận(16), Ngũ thường(17): Mở bày nền tảng Lục thuận; sánh hợp căn bản Ngũ thường ( 順之 . 常之 )(18). Trong những Tăng nhân viết kháng thư, người đầu tiên thể hiện sự phản kháng đáng chú ý là ngài Lô Sơn - Tuệ Viễn với tác phẩm thời danh Sa-môn bất kính vương giả luận ( ). Đặc biệt, ngài Đạo Tuyên, vị khai tổ của Luật tông Trung Quốc, đã viết bốn kháng thư vừa mang tính lý luận Phật học vừa dẫn ra những tai hại cho các vương quan khi ban sắc, chiếu trái đạo. Trong luận thư, ngài Đạo Tuyên đã vận dụng kinh thư Trung Hoa để xiển dương sự tôn nghiêm của Tam bảo(19). Theo ngài Đạo Tuyên, Do chiếu lệnh nên phải quỳ bái phụ mẫu, với người xuất gia theo Phật thì đó là việc quá sai lầm (然於父母猶令跪拜.私懷徒愜佛教甚違)(20). Trong những kháng thư, ngoài việc viện dẫn kinh điển, các Tăng nhân đều khẳng định rằng, nếu yêu cầu người xuất gia lễ bái, dù đó là quân vương hay cha mẹ, thì việc người thọ lễ sẽ bị tổn phước và thậm chí là đoản thọ. Theo Phụ mẩu đồng quân thượng bất lệnh xuất gia nhân trí bái biểu ( ) của Tăng nhân Sùng Bạt, thì Sa-môn lạy người đời thì họ sẽ tổn giảm công đức và thọ mạng, dù đó là quân vương hay cha mẹ ( )(21).
Thái độ phản kháng của Tăng nhân về việc bắt Sa-môn lễ lạy vua quan và cha mẹ còn được phát hiện rải rác trong Pháp uyển châu lâm ( )(22)Quảng hoằng minh tập ( )(23), Phật tổ lịch đại thông tải ( )(24), Trúc song tùy bút ( )(25)… Cơ sở nền tảng của những yêu cầu Sa-môn lễ lạy cha mẹ, vương quan cùng những kháng thư vừa dẫn, có liên quan đến hoặc căn cứ vào những bộ kinh, luật căn bản của Phật giáo. 
2- Cơ sở kinh, luật
Đạo Phật được xem là đạo hiếu. Đạo hiếu ấy bàng bạc trong mỗi trang kinh và được tiếp cận từ nhiều góc độ. Đề cập về hiếu đạo, ĐTKĐCTT có ghi lại các kinh căn bản sau: Phật thuyết báo ân phụng bồn kinh, cũng có tên là Báo tượng công đức kinh ( ( )(26); Phật thuyết phụ mẫu ân trọng kinh ( )(27); Phật thuyết hiếu tử kinh ( )(28); Phật thuyết phụ mẫu ân nan báo kinh ( )(29); Phật thuyết Vu lan bồn kinh ( )(30).
Một trong những cơ sở lý luận của việc lễ bái cha mẹ có liên quan đến luận điểm Đức Phật lạy đống xương khô. Ở đây, trong tất cả những kinh văn liên quan đến hiếu đạo vừa dẫn, không có chi tiết này. Lần ngược lại bản chữ Hán từ bản kinh tiếng Việt của kinh Báo ân cha mẹ, chi tiết: Như Lai hướng về đống xương khô, năm vóc sát đất, cung kính lễ bái ( 骨,五 , ) được phát hiện trong một bản kinh biệt hành mang tên Phật thuyết phụ mẫu ân trọng nan báo kinh ( ) do ngài Cưu Ma La Thập phụng chiếu dịch (   ). Điều đáng chú ý là bản kinh này không nằm trong Nghi tợ bộ và cũng không có tên trong ĐTKĐCTT. Chúng tôi đã khảo sát nhiều cách thức từ ĐTKĐCTT, Đại tạng kinh tường tế mục lục, cũng như toàn bộ dịch phẩm của ngài Cưu Ma La Thập trong Xuất tam tạng ký tập, nhưng không phát hiện bản kinh này. Theo quan điểm chính thống, các kinh văn được đưa vào Đại tạng kinh đã trải qua sự thẩm định nghiêm khắc của nhiều nhà nghiên cứu Phật học có thẩm quyền. Nếu căn cứ vào ĐTKĐCTT làm nền tảng, bản kinh nào không có trong danh mục Đại tạng, thì không được xem là kinh văn chính thống của Phật giáo Bắc truyền. Và như vậy, từ cơ sở này đã minh chứng, chi tiết Đức Phật lạy đống xương khô là sự kiện không có thực trong kinh văn Phật giáo Bắc truyền.
Trong giáo nghĩa Đại thừa, người xuất gia thể hiện lòng hiếu thảo với cha mẹ bằng nhiều cách. Trong tất cả những hình thức báo hiếu, kinh điển không đề cập đến việc quỳ lạy cha mẹ.
Theo kinh Đại bát Niết bàn, quyển thứ sáu ( )(31), Đức Phật dạy rằng: Người xuất gia không nên lễ kính người tại gia ( )(32); trong Chư kinh yếu tập, quyển thứ hai ( , ), Phật dạy: Không nên lễ bái hết thảy người tại gia ( )(33). Tương tự, kinh Phạm võng Bồ-tát giới ( )  quyển hạ, tập hai mươi bốn, Đức Phật dạy: Phép của người xuất gia thì không nên lễ bái quốc vương, không lễ lạy cha mẹ, không kính lễ lục thân quyến thuộc, không kính lễ quỷ thần ( . . )(34).  Chi tiết này cũng xuất hiện trong Giới pháp xuất gia tại gia - Bồ-tát giới, bản dịch tiếng Việt của Hòa thượng Trí Quang(35). Đặc biệt, trong quyển thứ năm mươi của bộ Tứ phần luật, bộ luật căn bản của người xuất gia, Đức Phật dạy, không nên lạy người thế tục ( . )(36). Tư liệu này cũng được tìm thấy trong Luật tứ phần, bản dịch tiếng Việt của Hòa thượng Thích Đỗng Minh(37).
Đây là những cơ sở nền tảng bảo chứng rằng, người xuất gia không nên lễ lạy người tại gia, dù đó là quân vương, cha mẹ hay lục thân quyến thuộc, dù còn sống hay đã chết. Vì lẽ, người xuất gia, đã thọ giới Bồ-tát, nếu lạy cha mẹ, thì phạm vào giới số 40 trong 48 giới nhẹ của Bồ-tát giới Phạm võng(38); người xuất gia nói chung, nếu lạy cha mẹ, thì không đúng với kinh, luật vừa được dẫn ở trên.
Thay lời kết hay những giải pháp gợi mở
Mặc dù thân, tâm xuất gia nhưng Tăng nhân vẫn có những mối liên hệ về nguồn cội của mình. Ứng xử hài hòa trong quan hệ thân tộc và hành trì đúng theo giới luật là việc làm cần thiết của một người xuất gia. Tham khảo về hành xử của Đức Phật trong tang lễ của thân phụ Tịnh Phạn được ghi lại trong Phật thuyết Tịnh Phạn vương bát Niết bàn kinh ( )(39), là những giải pháp gợi mở về trường hợp này.
Theo kinh, Đức Phật đã có những hỗ trợ cần thiết qua những khai thị ngắn gọn và thực tế, để cuối cùng sau khi từ bỏ huyễn thân, vua Tịnh Phạn được sanh lên cõi Trời Tịnh Cư (生淨居天). Kinh văn mô tả ứng xử khéo léo của Đức Phật, xoay quanh những sự kiện trong tang lễ. Một trong những chi tiết, đó là Đức Phật và Nan Đà nghiêm, kính đứng ở trước linh cữu, ngài A Nan và La Vân (La Hầu La – NV) thì đứng ở phía cuối ( . .   . ). Đặc biệt, Đức Phật sợ chúng sanh đời sau không báo đáp thâm ân cha mẹ, nên dự định tự mình khiêng quan tài của thân phụ ( ).
Ở đây, cần phải thấy rõ là Ngài chưa tự mình khiêng quan tài thân phụ. Hiện tại, chúng tôi chưa phát hiện tư liệu cho rằng Đức Phật ghé vai khiêng quan tài của thân phụ. Ngài vừa khởi ý như thế thì tam thiên đại thiên thế giới chấn động. Khi đó, bốn vị Thiên vương liền phát nguyện và được Phật cho phép, nên thay Đức Phật khiêng quan tài vua Tịnh Phạn. Chi tiết đáng lưu ý là trước khi khiêng quan tài, bốn vị Thiên vương đều hiện thân hình như người bình thường ( . . . ). Nghĩa cử cuối cùng của Đức Phật đối với thân phụ Tịnh Phạn là Ngài đã cúi mình, tay cầm lò hương, đi trước linh cữu, đưa di thể vua Tịnh Phạn về nơi an táng ( . . . ).
Kinh văn đã chuyển tải những thông điệp quan trọng về hành xử của người xuất gia đối với tang lễ của cha mẹ mình. Từ kinh văn cho thấy, những ứng xử của Đức Phật trong tang lễ của thân phụ vẫn nằm trong khuôn khổ những thiết định giới luật mà Ngài đã ban hành.
Trong thực tiễn đời sống, có một số trường hợp người xuất gia xem mẹ cha như những cư sĩ bình thường. Đây là những trường hợp mà Đại sư Liên Trì đã cực lực lên án trong tác phẩm Chánh ngoa tập (正訛集). Theo ngài Liên Trì, có những hạng ngu tăng không hiểu biết, cứ để cho cha mẹ lạy, hoặc ngồi chính giữa để cha mẹ chầu hầu bên cạnh, hoặc ngồi giữa thuyền để cha mẹ vất vả chèo ghe. Trong sâu xa thì trái với lời dạy của Phật, trong liên hệ đời thường thì ngược với nhân luân, làm cho người đời chê cười và tự thân trưởng dưỡng tánh ngã mạn ( 知,遂 拜,或 傍,或 , . , - ). Trong tác phẩm Trúc song tùy bút ( ), Đại sư Liên Trì đã đưa ra quan điểm xem cha mẹ giống như Phật ( 親,如   ) và yêu cầu người xuất gia nên ứng xử cho tương đồng. Căn cứ vào bối cảnh lịch sử, quan điểm này của Đại sư Liên Trì là giải pháp tình thế, nhằm chống lại một số trường hợp người xuất gia không hiếu kính, hay ứng xử không phù hợp đối với các bậc thân sinh ra mình.
Hiếu đạo là giá trị nhân văn mang tính toàn nhân loại. Mỗi dân tộc, quốc gia, tôn giáo… có những quy chuẩn về hiếu đạo khác nhau. Thang bậc hiếu thảo lớn nhất theo quy chuẩn của Nho gia là Tôn thân(40). Với Phật giáo, người con hiếu thảo đúng mực, ngoài những phận sự lo cho cha mẹ tương đương như Nho gia, thì việc khuyến hóa cha mẹ an trú trong TínGiới(41), quảng phát Bồ-đề tâm, vì cha mẹ sám hối nghiệp chướng, hồi hướng công đức tu hành cho cha mẹ… là những cách thức báo hiếu cao cả.  
 Chú thích

(1) Kinh Tiểu bộ, tập 10, Chuyện Tiền thân Đức Phật, chuyện Đại vương Vessantara, số 547. Xem thêm: No. 187, ; No. 156, 便 .
(2) Kinh Trung bộ, tập 2, kinh Ratthapala, số 82.
(3) Kinh Tương ưng, tập 2, thiên Nhân duyên, chương V, Tương ưng Kassapa, kinh Y áo.
(4) Kinh Tăng chi, chương Tám pháp, phẩm Lớn, kinh A Tu La Pahārāda.
(5) Kinh Tiểu bộ, tập 1, kinh Phật tự thuyết, chương một, phẩm Bồ-đề.
(6) Tích truyện Pháp cú, bản dịch của Viên Chiếu, phẩm Công bình pháp trụ, Người trẻ có thể là trưởng lão.
(7) Kinh Tương ưng, tập 1, Thiên có kệ, chương Ba, Tương ưng Kosala, phẩm thứ nhất, kinh Tuổi trẻ.
(8) Cullavagga, chương 6, Sàng tọa, Tụng phẩm thứ hai, Bài kệ về sự kính trọng. Bản dịch tiếng Việt của Tỳ-kheo Indacanda.
(9) Kinh Tiểu bộ, tập 10, Chuyện Tiền thân Đức Phật, chuyện Đại vương Vessantara, số 547.
(10)   No. 1462, .
(11) Tích truyện Pháp cú, Viên Chiếu dịch, phẩm Bà-la-môn, Tôn giả Xá Lợi Phất bị mẹ mắng.
(12) Kinh Mi Tiên vấn đáp, HT. Giới Nghiêm dịch, NXB Tôn giáo, 2003, tr. 422.
(13) Tích truyện Pháp cú, bản dịch của Viên Chiếu,  phẩm Tâm, Người đọc được tâm.
(14) Kinh Tiểu bộ, tập 10, Chuyện Tiền thân Đức Phật, chuyện Hiếu tử Sama, số 540.
(15) Kinh Trường bộ, tập 1, Kinh Đại bát Niết-bàn, số 16, tụng phẩm V.
(16) 春秋左傳, 隱公三年, 君義,臣行,父慈,子孝,兄愛,弟敬,所謂六順也.
(17)五常: , , , .
(18)    No. 2108 . . .
(19)    No. 2108 . 第三. 西 .
(20)   No. 2108 . 第三, 西明寺僧道宣等重上榮國 夫人楊氏請論不合拜親 一首
(21)     No. 2108 . . .
(22)  五十三 No. 2122 .
(23)                     No 2103, , .
(24)   No. 2036, .
(25)  Tác phẩm của Đại sư Liên Trì, vị Tổ thứ tám của Tịnh Độ tông (1532-1612).
(26)   No. 686, .
(27)     No. 2887, . Bản kinh này được xếp vào Nghi tợ bộ, trong ĐCTTĐTK.
(28)  No. 687, .
(29) No. 684, .
(30) No. 685, .
(31) No. 374, .
(32) Kinh đã dẫn.
(33) No. 2123, .
(34) No. 1484, .
(35) Giới pháp xuất gia tại gia, Bồ-tát giới, Trí Quang dịch, NXB. TP. HCM, 1998, tr. 183.
(36) No. 1428. .
(37) Luật tứ phần, quyển 6, HT. Thích Đỗng Minh dịch, Thích Nguyên Chứng và Thích Đức Thắng hiệu đính và chú thích, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam & NXB. TP. HCM, 2006, tr. 25.
(38) Giới pháp xuất gia tại gia, Bồ-tát giới, Trí Quang dịch, NXB. TP. HCM, 1998, tr. 105.
(39) 四冊 No. 512 .
(40) : ,   , , .
(41) Kinh Tăng chi, chương Hai pháp, phẩm Tâm thăng bằng, kinh Đất.