Bóng hồng vừa gác núi. Chim chóc từng đàn lũ lượt bay về tổ, kêu la rộn rịp.
Trên con đường mòn khúc khuỷu, các bác tiều phu vội vã cất gánh củi lên vai trở
về làng mạc. Tiếng náo động vắng dần. Quang cảnh rừng rú mỗi lúc càng tĩnh
mịch.
Thỉnh thoảng một vài tiếng chuông chùa ngân nga từ xa vọng lại, dường như để
thúc hối những người còn chậm bước chưa ra khỏi cảnh hoang liêu ghê rợn của núi
rừng. Một vài tiếng hú kêu vang và sâu tận trong hốc núi càng làm cho những kẻ
lạc loài khiếp đảm. Các loài thú dữ đã bắt đầu cuộc săn mồi thường bữa, chốc
chốc điểm lên những tiếng rống ghê người của chúa tể sơn lâm.
Từ trong thảo am bên mé nói, một vị Thiền sư lưng mang dây bố, tay chống gậy
tre, lần bước trên con đường mòn, tiến dần về phía xóm nhà cạnh mé rừng. Trời
vừa sắp tối, vị Thiền sư đến nơi và đi ngay vào cổng, tìm lại nhà hai vợ chồng
vị cư sĩ đã thọ giáo với Ngài. Sau những lời chào hỏi, hai vợ chồng vị cư sĩ
trải chiếu hoa mời Ngài an toạ. Trà nước xong, Thiền sư liền bảo: “Từ Ngày hai
ông bà đã thọ giáo theo Phật đến giờ, tôi thường tới lui để thúc nhắc. Ðộ này
việc tu niệm của ông bà được khá lắm, thật tôi rất lấy làm vui mừng. Song sự
đời có hiệp phải có tan, hôm nay tôi đến đây để thăm và cũng để tỏ lòng từ giả
hai ông bà. Ngày mai này tôi sẽ lên đường đặng đi giáo hoá một nơi khác. Có lẽ
cách nhau lâu, vì vậy tôi không dám hẹn ngày tái ngộ. Trước khi lên đường, tôi
xin dặn lại ít lời rất thiết, có thể là châm ngôn tu tập hằng ngày. Hai ông bà
phải cố gắng niệm Phật đừng để lãng quên, nếu chẳng may có gặp việc gì xảy ra
chênh mếch trong gia đình, ngoài xã hội, nên kiên nhẫn bỏ qua, tự an ủi lấy
lòng. Giả như một trong hai người lâm bịnh nặng sắp đến giờ hấp hối, người mạnh
cần nhất phải cho tĩnh tâm, sửa sang Phật tượng, hộ niệm cho nhau đến phút cuối
cùng; đừng nên than khóc, van kêu, làm cho người chết phải bối rối, loạn niệm,
khó được vãng sanh. Ðây là một việc khó, mà nhiều người tu hành đã vấp phải.
Nên tôi căn dặn hai ông bà hãy ghi nhớ. Ðược vậy, dù tôi ở cách xa, vẫn yên hóa
đạo”.
Dặn dò, chỉ bảo đâu đó xong xuôi, rạng ngày vị Thiền sư lên đường…
Ngày tháng qua mau, phút chốc đã được hai thu, nhờ y theo lời dạy của vị Thiền
sư mà thời gian qua, hai vợ chồng vị cư sĩ ăn ở với nhau rất thuận hòa, hằng
ngày làm phước, bố thí tụng kinh niệm Phật chuyên cần, lối xóm nhiều người cảm
mến.
Một hôm người chồng bị chứng thương hàn đau nặng. Người vợ chạy thuốc tìm thầy
đã hết hơi mà bịnh đâu vẫn còn nguyên đấy. Cuối cùng, có một vị danh y đại tài
đã được mời đến do công lao của người anh họ chẳng ngại xa xôi rước về. Sau khi
bắt mạch xong, vị danh y bảo: “Bệnh này không qua khỏi ngày nay, vì mạch đã
hết. Vậy bà đừng nên chạy chữa làm gì nữa cho tốn công hao của, hãy lo liệu
những vật dưỡng già mà thôi”.
Người vợ lúc bấy giờ đã tuyệt vọng, tâm thần bà rối loạn, quên hẳn lời dặn bảo
của vị Thiền sư, người chồng cứ nằm mê man mãi. Trong tình cảnh này, vì thương
chồng, vì tủi phận, người vợ chỉ có nước gục mặt bên chồng khóc kể liên miên.
Mãi đến khi người chồng mở đôi mắt thất thần nhìn vợ lần cuối cùng, mà người vợ
còn ghé mặt sát mặt chồng nức nở van kêu: “Mình ơi! Mình nỡ nào chết đi để một
mình tôi ở lại sống cô độc lẻ loi; hồi nào khổ sở có nhau, vui buồn cùng chịu,
ngày nay mình bỏ tôi mình đi một mình! Mình ơi!”.
Tội nghiệp người chồng vì nghe lời lẽ quá bi ai của vợ, cảm tình ân ái bất giác
nổi lên, nhìn vợ mà hai hàng lệ thắm tuôn ra, nghẹn thở… rồi… trút linh hồn.
Thần thức ông xuất ra nơi mắt. Người vợ vì gục mặt vào mặt chồng mà khóc, nên
thần thức chui ngay vào lỗ mũi vợ, hóa thành một con sâu.
Chồng mất rồi, vợ lo tròn bổn phận, chôn cất xong xuôi, đám ma cũng khá lớn,
những ơn nghĩa lối xóm cũng lo tròn.
Ðến khi bà con ai về nhà nấy, bấy giờ bốn bề lặng ngắt, người vợ vì thương
chồng bạc phận xét nỗi cô đơn hiu quạnh, lại thêm lỗ mũi mỗi ngày một lớn và
đau nhức vô cùng. Nàng cứ ngày đêm kêu gào than khóc, làm cho những kẻ ở gần,
ai cũng phải động lòng thương xót kẻ xấu duyên bạc phận.
Một hôm, vị Thiền sư trở lại và ghé thăm. Nàng vừa thấy bóng Ngài đã hối hả
chạy ra khóc than, kể lể…
Vị Thiền sư ôn tồn bảo: “Bà hãy nín, sống chết là lẽ thường, hễ có sanh là có
tử. Người tu hành khi bỏ được thân khổ này như quẳng được cái gánh nặng, bà nên
mừng giùm chớ sao lại khóc? Bà còn than khóc thế là bà chưa hiểu đạo. Xin
khuyên bà hãy nghe tôi, có thương nhớ nên để lòng, lo tu hành cho khuây lãng,
nếu còn nặng lòng ái ân thì kiếp sau lại gặp nhau nữa, vay trả, trả vay thành
một chuỗi oan gia vô cùng tận”.
Sau khi nghe vị Thiền sư khuyên bảo, như giải được sự đau buồn, nàng liền sửa
lại mái tóc, rồi tình cờ khịt mũi mạnh văng ra một con sâu khá lớn.
Thiền sư cả cười bảo: “Ở đời ít ai có nghĩa hơn bà, ai đời thương chồng mà khóc
đến có sâu trong lỗ mũi”.
Nàng thẹn quá, toan lấy chân dậm chết con sâu. Vị Thiền sư vội vàng khoát tay
bảo: “Ðừng, bà đừng nên làm thế, vì con sâu ấy là chồng bà vậy”. Nàng lạ lùng
hỏi:
“Bạch thầy: Chồng tôi suốt đời niệm Phật, làm phước, tại sao chết lại sanh vào
loài sâu bọ như thế?”. Thiền sư bảo: “Bà đã quên lời tôi dặn, khi chồng bà chết
và không lo tụng kinh niệm Phật và khuyên bảo chồng bà khởi chánh niệm, bà lại
còn đem tình ân ái kể lể khóc than, nên chồng bà khi sắp mất, bị lòng thương
vợ, nặng tình ân ái mà lãng quên chánh niệm. Vì vậy nên thần thức luyến ái
không thể vượt lên cao, mà phải chui vào mũi bà thành sâu bọ. Than ôi! Uổng một
kẻ tu hành, đã mong thoát kiếp luân hồi lại còn bị ái ân cột chặt. Thật có khác
nào con cò muốn cất cánh bay cao để thoát ngoài dò, bẫy; nhưng khốn nỗi nó có
bị sợi dây vô tình cột chặt vào chân. Thế có tội nghiệp không?”
Thiền sư lại đến gần con sâu khẽ bảo: “Ngươi trước cũng nghe lời ta chăm chỉ tu
hành lẽ ra thời đã được công đức lành mà sanh thiên hay vãng sanh Cực Lạc, song
vì tình ân ái của vợ chồng ngươi có còn sâu thẳm ngàn trùng, thành ra khi trút
hơi cuối cùng mà còn gây nghiệp chướng nặng nề phải thành loài sâu bọ, thật
đáng thương thay!”.
Con sâu nằm im từ này giờ, dường như nó cũng tự biết hổ thẹn ăn năn. Thiền sư
chú nguyện cho và nhờ công đức lành đã tạo từ trước, nên con sâu quằn quại một
lúc rồi chết, thần thức lại sanh vào cõi người. Người vợ đã tự hối và phát
nguyện tu hành, niệm Phật, trì chí không thối lui, kết quả bà được vãng sanh.
Người ta cũng không phải chỉ có một đời sống ngắn ngủi mở đầu trên cái nôi và
chấm hết trên cái mồ. Lọt lòng và nhắm mắt chỉ là bình minh và đêm tối của một
thời gian lặng lẽ trôi, không bao giờ tạm ngừng, không có đầu, không có đuôi.