Tìm kiếm Blog này

Thứ Tư, 14 tháng 11, 2012

Thường Niệm Phật !



Sáng ra niệm Phật Di Đà,
Trưa về nhai lại Di Đà vài câu.
Chiều về tỉnh giác từng câu,
Tối thì nằm ngủ nhớ câu Di Đà.
Khuya về nhớ Phật Di Đà,
Đêm đêm nhớ tưởng Di Đà trong Tâm.

Thứ Bảy, 10 tháng 11, 2012

_()_ Không Ai Không Khổ _()_ (ST)

Hai vợ chồng nhà nọ nuôi một con trâu và một con chó. Con chó được ở trong nhà còn con trâu phải ở riêng ngoài chuồng. Mỗi ngày trâu ra đồng cày bừa từ sáng sớm đến chạng vạng tối mới về, còn chó chỉ việc nằm ở cổng rào canh chừng cửa. Một hôm nọ trâu đi làm về, thấy chó nằm trước cửa nhà phe phẩy cái đuôi trông thật sướng, đang lúc mệt nhoài nó nổi cáu bảo:
- Không có ai sung sướng bằng mày, chỉ ăn rồi nằm. Thật là đồ vô tích sự!
Con chó nghe con trâu hậm hực nặng nhẹ mình thì buồn bã trong lòng, nghĩ trâu tuy to xác nhưng không có trí. Nó bèn nói với trâu:
- Anh trâu không hiểu đâu, tôi nào có sung sướng như anh tưởng. Anh tuy làm lụng nặng nhọc ngoài đồng nhưng có giờ có giấc, sáng ra đồng, chiều lại về, tối còn được nghỉ ngơi, cứ lăn ra mà ngủ. Còn tôi, tuy nằm canh cửa giữ nhà trông có vẻ nhàn hạ hơn anh, nhưng thật sự thì mệt cầm canh đâu có ai biết. Nằm lim dim mà lòng không yên, phải để tâm canh giữ cửa nhà, không dám lơ là công việc. Nếu ngủ quên hoặc bất cẩn để xảy ra mất trộm thì tôi khó mà sống được. Đêm đêm trong khi mọi người ngon giấc, tôi có được nghỉ ngơi đâu, tôi phải lắng tai nghe ngóng, đưa mắt nhìn trông, hễ nghe có động tĩnh gì thì phải sủa to để cảnh báo. Lúc chủ nhà vui thì tôi còn được ăn no, chứ khi họ có chuyện buồn bực trong lòng thì bỏ mặc tôi đói khát, không ai để mắt quan tâm. Những lúc sân si nổi lên họ còn trút giận lên đầu tôi không thương tiếc, họ đánh họ đá, xua đuổi, chửi mắng tôi. Mỗi khi bạn bè, người thân của họ đến chơi mà tôi không biết, tôi sủa tôi vồ thì họ đánh tôi, chửi tôi là đồ ngu. Bạn bè họ đến chơi thì không sao, còn bạn bè tôi đến chơi thì bị họ đuổi đi, ném đá đến toạc đầu đổ máu. Ngẫm lại coi, anh và tôi ai sướng hơn ai chứ?
Con trâu nghe nói mới hiểu tình cảnh của con chó, nghĩ mà thương nên an ủi:
- Đúng là mày cũng không sung sướng gì. Tao với mày ở chung nhà mà chưa một lần trò chuyện với nhau nên không hiểu nhau. Bây giờ tao đã hiểu nỗi khổ của mày, mày cho tao xin lỗi. Nghe mày nói tao mới biết cả hai chúng ta đều khổ cả.
Đang nói con trâu bỗng nghe tiếng chim ríu rít trên cành cây cao, nó nhìn nên rồi than thở:
- Bọn chim trời cá nước sung sướng làm sao! Chúng có thể tự do tự tại bên ngoài, không bị ai giam cầm quản thúc, không phải làm việc nặng nhọc vất vả, không phải chịu nỗi khổ của kiếp tôi đòi. Giá mà chúng ta có được cuộc sống vui vẻ như thế.
Khi ấy một chú chim nghe thấy lời trâu, bèn đáp lên lưng trâu nói:
- Anh trâu ơi, anh không biết đâu, tôi cũng không sung sướng hơn các anh đâu. Tuy loài chim chúng tôi không phải giữ nhà, không phải đi cày ruộng, không phải chịu cảnh tù túng bó buộc, nhưng chúng tôi cũng có nỗi khổ của mình. Hiểm họa luôn rình rập chúng tôi, những kẻ thợ săn có thể bắn chết chúng tôi bất cứ lúc nào. Tổ của chúng tôi làm khó khăn vất vả biết bao nhưng chưa chắc ở được lâu vì sự phá hại của con người. Trứng chúng tôi sinh ra chưa kịp nở con thì đã bị con người lấy mất. Loài người biết thương con của mình nhưng nào biết thương con của kẻ khác. Các anh chỉ bị hành hạ, còn tôi bị cướp đi mạng sống của mình, chết rồi còn bị nhổ lông, xẻ thịt, nấu nướng, thân thể không vẹn toàn. Loài người ỷ mạnh hiếp yếu, nào biết tôn trọng sự sống muôn loài. Các anh có cái khổ của các anh, chúng tôi cũng có cái khổ của chúng tôi, không có ai sung sướng cả.
Bầy cá đang ở dưới mé nước nghe trâu nói mình sướng cũng không đồng tình:
- Còn loài cá chúng tôi cũng không sung sướng đâu. Nhà cá chúng tôi thường bị loài người đánh bắt, mỗi lần bị sát hại chết đến cả bầy đàn. Không nơi nào là nơi để chúng tôi yên tâm mà sống, đâu đâu cũng có lưới bủa câu giăng, đâu đâu cũng có bàn tay con người truy bắt.
Trâu nghe chim và cá nói thì ngao ngán thở dài não nuột:
- Hóa ra tụi mày cũng khổ. Hiểu biết của tao hạn hẹp quá nên không biết còn nhiều nỗi khổ trên đời này.
Nói như thế rồi trâu buồn bã đi vào chuồng. Nó nằm mông lung suy nghĩ về thân phận của nó và bạn bè. Nó nghĩ, loài nào cũng bị con người hiếp đáp, làm hại. Cuộc đời thật bất công, loài người đối xử tệ bạc với các loài khác mà lại được sung sướng, không phải chịu sự khổ sở nào. Đang lúc đó bỗng trâu nghe tiếng quăng bát ném đĩa trong nhà vọng ra. Nó lắng tai nghe kỹ mới biết ông bà chủ đang gây gổ. Tiếng ông chủ gào lên:
- Sao tôi khổ đến thế này, không bằng con trâu con chó nữa! Con trâu đi cày còn được nghỉ, còn tôi suốt tháng quanh năm phải bận bịu với nhà cửa, vợ con, cơm áo gạo tiền, làm quần quật đêm ngày không lúc nào rảnh rỗi. Tôi khổ sở như vậy là vì ai? Vậy mà bà vẫn không để cho tôi yên, hễ thấy mặt là hạch sách, càm ràm, đay nghiến. Vừa phải thôi, làm quá tôi cho cả nhà ra chuồng trâu mà ở!
Nghe chủ nhà nói thế trâu bỗng giật mình, bất giác than rằng:
- Trời, coi chừng mình thành kẻ khổ sở nhất vì có nguy cơ bị con người chiếm luôn cái… chuồng!!!

Suy nghiệm

Thứ Sáu, 9 tháng 11, 2012

Chuyện Tôn Giả Bàn Đặc!



Tôn giả Châu Lợi Bàn Ðà Già là một đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni, người kém trí tuệ nhất. Tôn giả cũng có tên là Bàn Ðặc được sanh trong một gia đình nghèo khó, mộc mạc và sự cách biệt của cha mẹ. Cha Tôn giả là người vất vả, thiếu học, cuộc đời chỉ biết làm tôi tớ, còn mẹ lại là con gái của vị trưởng giả giàu có, học rộng hiểu xa. Hơn nữa bà còn nhanh nhẹ trước những việc khó
khăn. Thế mà cuộc hôn nhân của ông bà vẫn được thành tựu tốt đẹp, âu cũng là duyên kiếp.

Cuộc sống êm ả trôi qua, đôi vợ chồng cách biệt này vui sướng khi sắp sửa làm mẹ. Bà chuẩn bị về quê để chờ ngày khai hoa nở nhụy. Trên đường về lòng bà tràn ngập niềm vui, miên man nghĩ đến đứa con xinh xắn sắp chào đời mà quên đi quãng đường xa. Chẳng mấy chốc đã gần đến nơi chợt bà thấy đau nhói, mỗi lúc càng nhiều. Ðến lúc không chịu nổi nữa, bà phải dừng lại bên vệ đường, tìm vào nơi kín đáo, rồi hạ sanh một bé trai trắng trẻo, mập mạp, ấy chính là Bàn Ðặc. Thương thay cho kẻ sơ sinh phải vương mùi khổ lụy từ khi lọt lòng mẹ.

Thuở nhỏ Bàn Ðặc thật dại khờ, vả lại nhà nghèo nên không được đi học, vì vậy mà càng thêm dốt nát. Sau nhờ quả phước báo may mắn được Ðức Phật độ cho xuất gia tu hành. Ðức dạy ông bài kệ chỉ bốn câu nhưng vì căn tánh ngu độn mà ông học mãi không thông. Bấy giờ Ðức Phật dung phương tiện thực tế giáo hóa ông, chờ khi Châu Lợi Bàn Ðặc cầm chổi quét nhà Ðức Phật liền chỉ ngay cây chổi mà dạy rằng:

- Này Bàn Ðặc! Khi nào cầm đến cây chổi quét nhà thì con nhớ đọc hai tiếng: "Chổi Quét". Nếu lòng con giữ vững được chánh niệm hai tiếng "Chổi Quét" thì con quyết sẽ chứng Thánh đạo, giải thoát sanh tử luân hồi.

Lúc đầu, chỉ bấy nhiêu đó mà Bàn Ðặc cũng không nhớ nổi, hễ nhớ tiếng "Chổi" thì quên tiếng "Quét", mà nhớ tiếng "Quét" lại quên tiếng "Chổi". Thật con người của ông không có một chút trí nhớ nào hết, đến đỗi ai gặp ông cũng đều cười chê, đùa cợt.

Một hôm Vương tử Kỳ Vực đến cầu Ðức Phật và hàng đệ tử vào cung vua để thọ sự cúng dường, nhưng không mời Bàn Ðặc tham dự. Lúc Ðức Thế Tôn cùng hàng đệ tử đến cung thì Vương tử Kỳ Vực sẳn sàng bưng thau nước trong dâng lên Ðức Phật để rửa chân (theo phong tục Ấn Ðộ, đó là phép lịch sự của chủ đối với khách), nhưng Ngài chẳng tiếp lấy. Thấy vậy, Vương tử ngạc nhiên thưa hỏi:

- Kính lạy Ðức Thế Tôn! Con kính dâng thau nước trong này để Ngài rửa chân sao Ngài không nhận?

- Này Vương tử! Trong hàng để tử của ta đến nhận sự cúng dường có thầy Tỳ kheo Bàn Ðặc ở đó không?

- Kính lạy Ðức Thế Tôn! Thầy Tỳ kheo Bàn Ðặc chỉ có hai tiếng "Chổi Quét" còn không nhớ nổi, so lại không sánh bằng kẻ chăn dê nên con không có mời đến.

- Này Vương tử! Không phải vậy, Phật pháp phải là bình đẳng, không phân giai cấp cao hay thấp, cũng chẳng có kẻ sang người hèn, tất cả đều như nhau. Nếu Vương tử không mời Thầy Tỳ kheo Bàn Ðặc đến đây thì ta không nhận lấy thau nước này.

Biết mình lầm lạc, làm trái ý Ðức Phật, Vương tử vội phái quan đại thần đến thỉnh Tôn giả Bàn Ðặc.

Khi tới nơi, Bàn Ðặc vào lãnh thọ sự cúng dường. Ðức Phật bảo Tôn giả A Nan gắp thức ăn để vào bát Bàn Ðặc. Thấy vậy Bàn Ðặc lấy làm mừng rỡ liền đứng dậy một lúc lâu, đúng ra việc này ông phải chờ lệnh của Ðức Phật, bởi vì đem so thì Tôn giả A Nan xuất gia sớm hơn Tôn giả Bàn Ðặc.

Tôn giả Bàn Ðặc ngồi cách xa Ðức Phật nên việc đem bình bát đến bên Ðức Phật khi ăn xong không phải là chuyện dễ, nhưng bình bát của Tôn giả Bàn Ðặc vẫn được đưa đến đây trước sự ngạc nhiên của mọi người. Ðó là nhờ sức oai thần của Ðức Phật mà đại chúng không được biết.

Thấy vậy, Vương tử Kỳ Vực vội chắp tay đến quỳ trước Tôn giả Bàn Ðặc mà thành tâm sám hối.

Thuở trước Tôn giả Bàn Ðặc vốn ngu dốt, có thể là tâm ông không bền vững. Mặc dù bị người đời chê cười, biếm nhã, nhưng ông vẫn không thối chí, nản lòng, mà quyết chuyên đọc hai tiếng "Chổi Quét" suốt sáu năm dài, để rồi ông được thức tỉnh, tâm không còn rối loạn, đi đến Giác Ngộ và chứng Thánh quả. Từ đó về sau tâm trí phát sanh rộng lớn, ông thấu hiểu nhiều đạo lý mầu nhiệm, lãnh hội nhiều pháp ngữ sâu xa của Ðức Phật.

Những người trước kia khinh thường, chê biếm ông sẽ thay ông tiêu tai nạn. Bấy giờ không còn một ai dám cười chê ông nữa mà lại càng kính trọng hơn.

Có một lần Tôn giả Bàn Ðặc cùng 499 vị Ðại để tử theo Ðức Phật đến cung Long Vương A Nậu Ðạt nhận sự cúng dường. Khi đến bờ ao A Nậu Ðạt, Ðức Phật bảo hàng đệ tử:

- Này các thầyTỳ kheo! Mỗi vị hãy múc lấy nước tám công đức ở trong ao mà uống. Sau đó các vị có thể biết được việc đời trước của mình.

Khi hàng đệ tử thực hành xong, Ðức Phật tiếp:

Bây giờ các vị hãy thuật lại kiếp đời trước của chính mình nghe ra sao.

- Vâng lời Phật dạy, Bàn Ðặc liền tự thuật:

- Kính lạy Ðức Thế Tôn! Thưa toàn thể đại chúng: Ðời trước con là một người nuôi heo. Một hôm con lùa heo đến chợ bán. Ði được nửa đường thì bị một con sông cản lối, vì muốn đem heo đến chợ sớm nên con không thể dừng lại đó. Con giải quyết bằng cách cột chân heo lại và lấy vải buộc mỏ chúng để khỏi la ồn. Xong xuôi, con cầm dây từ từ kéo bầy heo qua sông. Khi con sang được bờ bên kia thì bầy heo bị ngộp thở mà chết cả. Vốn liếng con bị tiêu tan từ đó. Cuộc sống của con trở nên khổ sở, lắm lúc như điên dại, thường đứng ở bờ sông ngơ ngác không tìm ra lẽ sống. May gặp được một vị cao Tăng rộng lòng thương xót, Ngài khuyên con xuất gia tu học. Sau khi bỏ thân ấy con được sanh lên cõi Trời. Lúc hưởng hết phước ở cõi Trời rồi mới trở xuống nhân gian làm người.

Do vì kiếp trước buộc mỏ heo kéo sang sông làm tổn hại rất nhiều sanh mạng nên kiếp này con mắc quả báo ngu dốt. May nhờ kiếp trước có nhân duyên xuất gia nên đời này con được gặp Phật độ, chứng quả vị A La Hán.

Tình Ân Ái Là Gốc Của Sự Sanh Tử !



 Bóng hồng vừa gác núi. Chim chóc từng đàn lũ lượt bay về tổ, kêu la rộn rịp. Trên con đường mòn khúc khuỷu, các bác tiều phu vội vã cất gánh củi lên vai trở về làng mạc. Tiếng náo động vắng dần. Quang cảnh rừng rú mỗi lúc càng tĩnh mịch.

Thỉnh thoảng một vài tiếng chuông chùa ngân nga từ xa vọng lại, dường như để thúc hối những người còn chậm bước chưa ra khỏi cảnh hoang liêu ghê rợn của núi rừng. Một vài tiếng hú kêu vang và sâu tận trong hốc núi càng làm cho những kẻ lạc loài khiếp đảm. Các loài thú dữ đã bắt đầu cuộc săn mồi thường bữa, chốc chốc điểm lên những tiếng rống ghê người của chúa tể sơn lâm.

Từ trong thảo am bên mé nói, một vị Thiền sư lưng mang dây bố, tay chống gậy tre, lần bước trên con đường mòn, tiến dần về phía xóm nhà cạnh mé rừng. Trời vừa sắp tối, vị Thiền sư đến nơi và đi ngay vào cổng, tìm lại nhà hai vợ chồng vị cư sĩ đã thọ giáo với Ngài. Sau những lời chào hỏi, hai vợ chồng vị cư sĩ trải chiếu hoa mời Ngài an toạ. Trà nước xong, Thiền sư liền bảo: “Từ Ngày hai ông bà đã thọ giáo theo Phật đến giờ, tôi thường tới lui để thúc nhắc. Ðộ này việc tu niệm của ông bà được khá lắm, thật tôi rất lấy làm vui mừng. Song sự đời có hiệp phải có tan, hôm nay tôi đến đây để thăm và cũng để tỏ lòng từ giả hai ông bà. Ngày mai này tôi sẽ lên đường đặng đi giáo hoá một nơi khác. Có lẽ cách nhau lâu, vì vậy tôi không dám hẹn ngày tái ngộ. Trước khi lên đường, tôi xin dặn lại ít lời rất thiết, có thể là châm ngôn tu tập hằng ngày. Hai ông bà phải cố gắng niệm Phật đừng để lãng quên, nếu chẳng may có gặp việc gì xảy ra chênh mếch trong gia đình, ngoài xã hội, nên kiên nhẫn bỏ qua, tự an ủi lấy lòng. Giả như một trong hai người lâm bịnh nặng sắp đến giờ hấp hối, người mạnh cần nhất phải cho tĩnh tâm, sửa sang Phật tượng, hộ niệm cho nhau đến phút cuối cùng; đừng nên than khóc, van kêu, làm cho người chết phải bối rối, loạn niệm, khó được vãng sanh. Ðây là một việc khó, mà nhiều người tu hành đã vấp phải. Nên tôi căn dặn hai ông bà hãy ghi nhớ. Ðược vậy, dù tôi ở cách xa, vẫn yên hóa đạo”.

Dặn dò, chỉ bảo đâu đó xong xuôi, rạng ngày vị Thiền sư lên đường…

Ngày tháng qua mau, phút chốc đã được hai thu, nhờ y theo lời dạy của vị Thiền sư mà thời gian qua, hai vợ chồng vị cư sĩ ăn ở với nhau rất thuận hòa, hằng ngày làm phước, bố thí tụng kinh niệm Phật chuyên cần, lối xóm nhiều người cảm mến.

Một hôm người chồng bị chứng thương hàn đau nặng. Người vợ chạy thuốc tìm thầy đã hết hơi mà bịnh đâu vẫn còn nguyên đấy. Cuối cùng, có một vị danh y đại tài đã được mời đến do công lao của người anh họ chẳng ngại xa xôi rước về. Sau khi bắt mạch xong, vị danh y bảo: “Bệnh này không qua khỏi ngày nay, vì mạch đã hết. Vậy bà đừng nên chạy chữa làm gì nữa cho tốn công hao của, hãy lo liệu những vật dưỡng già mà thôi”.

Người vợ lúc bấy giờ đã tuyệt vọng, tâm thần bà rối loạn, quên hẳn lời dặn bảo của vị Thiền sư, người chồng cứ nằm mê man mãi. Trong tình cảnh này, vì thương chồng, vì tủi phận, người vợ chỉ có nước gục mặt bên chồng khóc kể liên miên. Mãi đến khi người chồng mở đôi mắt thất thần nhìn vợ lần cuối cùng, mà người vợ còn ghé mặt sát mặt chồng nức nở van kêu: “Mình ơi! Mình nỡ nào chết đi để một mình tôi ở lại sống cô độc lẻ loi; hồi nào khổ sở có nhau, vui buồn cùng chịu, ngày nay mình bỏ tôi mình đi một mình! Mình ơi!”.

Tội nghiệp người chồng vì nghe lời lẽ quá bi ai của vợ, cảm tình ân ái bất giác nổi lên, nhìn vợ mà hai hàng lệ thắm tuôn ra, nghẹn thở… rồi… trút linh hồn.

Thần thức ông xuất ra nơi mắt. Người vợ vì gục mặt vào mặt chồng mà khóc, nên thần thức chui ngay vào lỗ mũi vợ, hóa thành một con sâu.

Chồng mất rồi, vợ lo tròn bổn phận, chôn cất xong xuôi, đám ma cũng khá lớn, những ơn nghĩa lối xóm cũng lo tròn.

Ðến khi bà con ai về nhà nấy, bấy giờ bốn bề lặng ngắt, người vợ vì thương chồng bạc phận xét nỗi cô đơn hiu quạnh, lại thêm lỗ mũi mỗi ngày một lớn và đau nhức vô cùng. Nàng cứ ngày đêm kêu gào than khóc, làm cho những kẻ ở gần, ai cũng phải động lòng thương xót kẻ xấu duyên bạc phận.

Một hôm, vị Thiền sư trở lại và ghé thăm. Nàng vừa thấy bóng Ngài đã hối hả chạy ra khóc than, kể lể…

Vị Thiền sư ôn tồn bảo: “Bà hãy nín, sống chết là lẽ thường, hễ có sanh là có tử. Người tu hành khi bỏ được thân khổ này như quẳng được cái gánh nặng, bà nên mừng giùm chớ sao lại khóc? Bà còn than khóc thế là bà chưa hiểu đạo. Xin khuyên bà hãy nghe tôi, có thương nhớ nên để lòng, lo tu hành cho khuây lãng, nếu còn nặng lòng ái ân thì kiếp sau lại gặp nhau nữa, vay trả, trả vay thành một chuỗi oan gia vô cùng tận”.

Sau khi nghe vị Thiền sư khuyên bảo, như giải được sự đau buồn, nàng liền sửa lại mái tóc, rồi tình cờ khịt mũi mạnh văng ra một con sâu khá lớn.

Thiền sư cả cười bảo: “Ở đời ít ai có nghĩa hơn bà, ai đời thương chồng mà khóc đến có sâu trong lỗ mũi”.

Nàng thẹn quá, toan lấy chân dậm chết con sâu. Vị Thiền sư vội vàng khoát tay bảo: “Ðừng, bà đừng nên làm thế, vì con sâu ấy là chồng bà vậy”. Nàng lạ lùng hỏi:

“Bạch thầy: Chồng tôi suốt đời niệm Phật, làm phước, tại sao chết lại sanh vào loài sâu bọ như thế?”. Thiền sư bảo: “Bà đã quên lời tôi dặn, khi chồng bà chết và không lo tụng kinh niệm Phật và khuyên bảo chồng bà khởi chánh niệm, bà lại còn đem tình ân ái kể lể khóc than, nên chồng bà khi sắp mất, bị lòng thương vợ, nặng tình ân ái mà lãng quên chánh niệm. Vì vậy nên thần thức luyến ái không thể vượt lên cao, mà phải chui vào mũi bà thành sâu bọ. Than ôi! Uổng một kẻ tu hành, đã mong thoát kiếp luân hồi lại còn bị ái ân cột chặt. Thật có khác nào con cò muốn cất cánh bay cao để thoát ngoài dò, bẫy; nhưng khốn nỗi nó có bị sợi dây vô tình cột chặt vào chân. Thế có tội nghiệp không?”

Thiền sư lại đến gần con sâu khẽ bảo: “Ngươi trước cũng nghe lời ta chăm chỉ tu hành lẽ ra thời đã được công đức lành mà sanh thiên hay vãng sanh Cực Lạc, song vì tình ân ái của vợ chồng ngươi có còn sâu thẳm ngàn trùng, thành ra khi trút hơi cuối cùng mà còn gây nghiệp chướng nặng nề phải thành loài sâu bọ, thật đáng thương thay!”.

Con sâu nằm im từ này giờ, dường như nó cũng tự biết hổ thẹn ăn năn. Thiền sư chú nguyện cho và nhờ công đức lành đã tạo từ trước, nên con sâu quằn quại một lúc rồi chết, thần thức lại sanh vào cõi người. Người vợ đã tự hối và phát nguyện tu hành, niệm Phật, trì chí không thối lui, kết quả bà được vãng sanh.

Người ta cũng không phải chỉ có một đời sống ngắn ngủi mở đầu trên cái nôi và chấm hết trên cái mồ. Lọt lòng và nhắm mắt chỉ là bình minh và đêm tối của một thời gian lặng lẽ trôi, không bao giờ tạm ngừng, không có đầu, không có đuôi.

 

Vàng Hay Rắn !

Khi Ðức Phật còn tại thế, một hôm Ngài cùng hai vị đại đệ tử A Nan và A Nan Ðà từ non Thứu Lãnh đi xuống kinh thành khất thực. Ði giữa đường, ngang qua một bờ lở, Ngài thấy một ghé vàng.
Ðức Phật dừng lại bảo A Nan Ðà rằng:

“Này A Nan Ðà! Người có thấy đây là một loài rắn độc không?”. Ngài A Nan Ðà cung kính bạch rằng: “Bạch Thế Tôn thật là một loài rắn độc đáng sợ hãi”. Có chàng tiều phu đứng gần nghe vậy, tưởng có gì độc thật vội vàng đến xem.

Anh đến, thấy một ghè niêm phong cẩn thận, mở ra xem. Anh mừng quá. Vàng toàn là vàng. Vàng ngọc quý cả. Anh cười thầm Phật và đệ tử Ngài không biết dùng thứ ấy, còn cho nó là rắn độc. Anh ta cẩn thận, hớn hở mang về. Trước khi đem về, anh ta sung sướng la lên rằng:

“Tôi xin nguyện con rắn độc này luôn luôn cắn tôi và cắn cha mẹ, vợ con, quyến thuộc tôi. Tôi không cảm thấy đau đớn gì hết”.

Anh chàng tiều phu kia trở nên một người trưởng giả giàu có kiêu sa: nào là nhà cửa, ruộng vườn, tôi tớ, bò trâu, xe cộ, cực kỳ sung túc và lộng lẫy. Làng xóm thấy vậy đâm ra nghi kỵ, không biết anh vì sao giàu sang đột ngột như vậy?

Tiếng đồn vang đến tai vua A Xà Thế. Vua cho sứ giả đến hỏi: “Có phải được của kín nhà vua chăng?”. Anh ta ấp úng trả lời: “Tôi giàu là tôi giàu; tôi cũng không được chi của nhà vua cả”.

Sứ giả về tâu lại.

Vua cho gọi đến hỏi. Anh cũng ấp úng trả lời như củ. Cho là người gian, vua ra lệnh tịch thâu gia tài điền sản và bắt anh ta và tất cả bà con quyến thuộc đem đi hành hình.

Khi đi giữa đường anh ta khóc lóc, buồn bã và la lớn rằng: “Ngài A Nan Ðà ơi! Thật là một thứ rắn độc! Rắn độc nó đang cắn tôi và cắn bà con của tôi đây”.

Theo luật vua A Xà Thế, ông vua thật hành Phật Pháp, mỗi khi muốn xử tử một người nào, giữa đường nếu có gì lạ phải trở về tâu lại ngay. Bọn lính nghe chàng ta gọi mãi Ngài A Nan Ðà, bèn trở về tâu lại vua hay.

Vua đoán chắc có chuyện lạ, nên ra lệnh đem anh về. Vua hỏi lại lần này anh ta mới chịu thưa thiệt nguyên do được ghè vàng, nghe xong, vua cảm động ân hóa dụ của Ðức Phật và bảo chàng tiều phu rằng: “Tội ngươi đáng chết, nhưng may duyên gặp Ðức Thế Tôn. Ta cũng là người Phật tử, ta phóng thích cho người và bà con người. Người được phép đem gia tài và châu báu về. Người phải đổi tự tâm tu theo thiện nghiệp và hết lòng cung kính cúng dường Tam Bảo.”

Chàng tiều phu được phóng thích, sung sướng vô cùng. Cảm mến ân Phật được sống, chàng về chỉ lo tu phước đức và hết lòng cúng dường Tam Bảo.

Không bao lâu, nhờ công đức và lòng thành kính ta hành, anh ta được chứng quả giải thoát.

Ta phải làm chủ tiền bạc,
Ðừng để tiền bạc làm chủ ta.

Nguồn Gốc Ngạ Quỷ! (st)



Là vong linh người đã chết nhưng do có nhiều ham muốn, dục vọng cần được thoả mãn nhưng chưa thoả mãn được. Trong các nhu cầu ham muốn ấy, tất nhiên thức ăn ngon và quần áo đẹp luôn là những tiêu chí đầu tiên, cũng giống như khi con người còn sống vậy.
oOo Hình dạng Ngạ Quỷ oOo

Hai mắt to, lồi ra: Do nhìn, ham muốn và cứ thích nhìn những gì mình chưa có.

Hai tai dài, hơi to và hơi nhọn: Do phải căng tai ra để nghe xem ở đâu có đồ ăn ngon, có ai đang khen mình, có ai nhắc đến mình không.

Răng lởm chởm: Do ăn uống thiếu thốn, không điều độ và không giữ gìn khẩu nghiệp.

Tóc loe hoe vài cọng, gần như hói trọc: Do phải suy nghĩ, tìm cách để có miếng cơm manh áo một cách cật lực

Da ngâm đen sạm: Do những đau khổ, u sầu từ trong tâm thị hiện ra ngoài.

Thân hình có tay chân ốm chỉ là da bọc xương, lòi xương trên người: Do có ham muốn mà chẳng thể thoả mãn được

Bụng bự: Chất chứa nhiều ham muốn, thu vào bao nhiêu cũng không thấy đủ

Cổ teo nhỏ và vươn dài: Ham muốn thì nhiều nhưng thoả mãn chẳng được bao nhiêu, cứ phải ngóng đầu ngóng cổ trông chờ bố thí

Thường là chỉ mặc độc nhất một chiếc quần ngắn nho nhỏ, có khi là không có quần áo che thân: Do luôn cảm thấy thiếu thốn.

Thường xuyên nhỏ dãi: Do thèm thuồng nhiều thứ

oOo Tính chất oOo

Có mùi hôi khó ngửi: Do thường xuyên lảng vảng ở những nơi tối tăm, có thức ăn thừa, vụn, ôi thiu...

Dễ tương thông, cảm ứng khi tiếp xúc gần gũi và có thể tác ý, truyền ý tác động đến những người có nhiều tham vọng, ham muốn, thèm muốn được ăn, mặc, quyền lợi các thứ... khi ấy người bị tác động sẽ trở nên thô lỗ, thể hiện rõ sự tham của mình như: tham ăn, tham mặc, tham tiền, tham quyền... một cách rõ ràng chẳng cần kiêng dè, sĩ diện trước ánh mắt của người xung quanh.

Khi đã nhập xác vào người sống:
Đối với người bị ngạ quỷ nhập, có các mức độ là nhập nhất thời và nhập toàn phần.

Nhập nhất thời là chỉ nhập vào trong một khoảng thời gian nhất định trong ngày, thường là gần đến giờ cơm, trưa nắng nóng, khi trời chạng vạng tối, khuya lạnh. Khi nhập vào, ăn no rồi sẽ xuất ra.

Nhập toàn phần tức là nhập vào, ăn uống no nê xong không muốn ra, cứ muốn ở trong thân xác người đó.

Sẽ thị hiện hình tướng Ngạ Quỷ ở hai mắt trắng dã, dễ dàng nhìn thấy tròng trắng mắt nhiều hơn tròng đen, mắt trông lờ đờ như người đã bị chứng mất ngủ lâu ngày, hơi có vầng thâm quầng xanh đen.

Miệng thường xuyên ứa nước bọt mà người đó không làm chủ được, nhất là khi nhìn thấy đồ ăn. Sẽ muốn nhào vào đồ ăn, bốc ăn ngấu nghiến không quan tâm xung quanh đang nhìn họ.

Có khi nước dãi chảy cả ra ngoài miệng.

Dễ nổi nóng nhất là khi nghe thấy ai đó chê bai họ, hay không cho họ ăn

Tai nghe rất thính, ai nói gì nhỏ nhỏ từ xa cũng có thể nghe thấy.
Đói bụng rất nhiều, ăn hoài không thấy no, cứ ăn liên tục chẳng muốn dừng, vì cứ cảm thấy đói.

Sợ nước, sợ tắm, sợ nghe tiếng tụng kinh, gõ mõ, niệm Phật, sợ các pháp sư, các vị Hộ Pháp.

Nếu nhìn thấy ảnh tượng của chư vị đạo đức cao trọng sẽ thường dập đầu cúi lạy để tỏ lòng thành kính và cầu xin chư vị ban phước, bố thí.

Đối với tình trạng nhập toàn phần, nếu như người đó và gia đình, bạn bè người thân không nhận thấy được sự thay đổi kỳ lạ của người bị nhập, không tìm được cách giải như là dẫn đi chùa sám hối, gặp các tăng ni, pháp sư có tâm đức, pháp lực cao có thể giải xuất ra.

Một thời gian sau, khoảng tầm một năm từ ngày bị nhập, tinh thần của xác bị nhập sẽ dần dần đồng hoá với tinh thần của Ngạ Quỷ, lúc đó tuy 2 mà 1, Ngạ Quỷ có thể nói là chiếm xác hoàn toàn.

Ý chí của người bị nhập xác có thể bị đánh mất hoàn toàn. Lúc này thì dù có may duyên gặp được các pháp sư có pháp lực cao cũng không thể trục giải ra được vì đã đồng hoá với nhau.

Chỉ đến khi người đó chết, khi đó hồn lìa khỏi xác, sẽ tách biệt ra lại thành 2 phần hồn riêng biệt của người đó và Ngạ Quỷ, nhưng ở 1 số trường hợp đặc biệt lâu, nặng, và sự tương đồng quá hoàn hảo thì 2 hồn sẽ kết hợp thành 1 hồn hoàn toàn.

Tất nhiên là nhân quả, duyên nghiệp của vong linh đó được cộng dồn từ 2 phần căn duyên nghiệp quả của người bị nhập với Ngạ Quỷ đã nhập người đó.

oOo Cách hoá giải oOo

Nếu nhận thấy người nào có các biểu hiện của Ngạ Quỷ nhập thì nhanh chóng đưa đến chùa, hoặc là ngồi tâm sự, khuyên giải Ngạ Quỷ xuất ra, nên cúng cho họ thường xuyên để họ cảm nhận được sự quan tâm của người sống, cảm thấy được an ủi phần nào mà không quá thèm muốn, bức xúc đến nỗi nhập vào người sống để thoả mãn.

Tăng ni, pháp sư hiểu chuyện và có tâm đức, pháp lực thực sự sẽ chỉ luôn dùng những biện pháp ôn hoà, hoá giải duyên nghiệp giữa người sống với Ngạ Quỷ mà không dùng đến các hình thức bùa phép trù yếm, đánh đập, la mắng hay đe doạ.

Nhớ kỹ điều này để tránh lầm tà sư cơ hội hại người để khoe danh mình.

Tuyệt đối không được mắng chửi, đánh đập, đe doạ, điều ấy chỉ làm tình trạng thêm tệ hơn. Nếu nhìn thấy người mình nhờ giúp đỡ có dấu hiệu dùng các biện pháp không ôn hoà thì lập tức ngưng ngay và tìm người khác giúp đỡ, hoặc cố gắng tâm sự chia sẻ để mời Ngạ Quỷ xuất khỏi người sống ấy.

Cúng cơm thí thực, đồ chay, trái cây, cầu nguyện cho Ngạ Quỷ được cảm thấy no ấm, không còn ham muốn đói khát và hồi hướng về Đạo Pháp mà giải khổ của họ.

Tụng kinh cầu siêu cho Ngạ Quỷ

Dùng nước Thánh là Thanh Tịnh Thuỷ để tắm cho người bị nhập.
Cách điều chế nước: Pha nước nóng ấm vừa đủ, cho vài giọt dầu xức người vào nước, cho vài muỗng muối vào nước, cho một ít rượu vào cho có hương thơm của rượu và dầu hoà nhau, lấy nước đó tắm từ trên đỉnh đầu xối xuống toàn thân để xả hết trược khí.
......................

oOo Hãy luôn tâm niệm một điều oOo

Dùng yêu thương để giải quyết mọi vấn đề liên quan đến thế giới vô hình. Rồi mọi việc sẽ ổn.
........................
Tôi đã từng gặp được vài bạn Ngạ Quỷ trong đời sống thực tại, khi họ nhập vào mấy người sống. Lúc ấy trông họ đáng thương lắm, đói bụng, thèm được ăn, xin bát cơm trắng, cầm lên tay bốc ăn ngấu nghiến không kịp nuốt, cơm có rơi vãi ra đất thì lượm lên từng hột để bỏ vào miệng ăn ngon lành, trông họ ăn với vẻ mặt hạnh phúc vô cùng...

Hãy trân trọng từng hạt châu ngọc chúng ta may mắn có được trong mỗi bữa ăn, đừng bỏ thừa mứa gì hết, nếu ăn uống hoang phí thì sau này khi chết đi, sẽ trở thành Ngạ Quỷ đó vậy... đây chỉ là một con đường ngắn nhất để trở thành Ngạ Quỷ thôi, tất nhiên còn nhiều con đường căn duyên, nghiệp quả khác khiến một người khi chết thì vong linh trở thành Ngạ Quỷ lắm!