Tìm kiếm Blog này

Thứ Hai, 26 tháng 12, 2011

LỢI ÍCH CỦA LÒNG TIN




Một thời Thế Tôn ở Vesàli, gọi các Tỷ kheo:
Này các Tỷ kheo, có năm lợi ích này cho thiện nam tử có lòng tin. Thế nào là năm ?
Các Thiên nhân, các Chân nhân, trước hết có lòng thương tưởng đến các vị có lòng tin, không có như vậy đối với các vị không có lòng tin.
Khi đến thăm, trước hết họ đến thăm những vị có lòng tin, không có như vậy đối với người không có lòng tin.
Khi chấp nhận thọ thực, họ chấp nhận trước hết những vị có lòng tin, không có như vậy đối với những vị không có lòng tin.
Họ thuyết pháp trước hết cho những người có lòng tin, không cho những người không có lòng tin.
Người có lòng tin, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên cõi lành, cõi trời.
Những pháp này, này các Tỷ kheo, là năm lợi ích cho thiện nam tử có lòng tin.
Ví như, này các Tỷ kheo, trên khoảnh đất tốt, tại ngả tư đường, có cây bàng to lớn là chỗ nương tựa cho các loài chim. Cũng vậy, này các Tỷ kheo, các thiện nam tử có lòng tin là chỗ nương tựa cho quần chúng, cho các Tỷ kheo, Tỷ kheo ni, cho nam cư sĩ và nữ cư sĩ.
(ĐTKVN(*), Tăng Chi Bộ II, chương 5, phẩm Sumana, phần Sự lợi ích của lòng tin, VNCPHVN(**) ấn hành 1996, tr.369)

LỜI BÀN:
Lòng tin, theo Phật giáo phải là chánh tín, tịnh tín tức niềm tin sau khi đã được kiểm chứng bởi trí tuệ. Niềm tin mà hời hợt, mơ hồ và dễ dãi đồng thời thiếu hiểu biết về nó chính là mê tín. Vì thế, đã tin phải hiểu và hiểu để củng cố, tăng trưởng niềm tin là điều không thể thiếu đối với chánh tín Phật giáo.
Trước hết, hàng Phật tử phải thiết lập được niềm tịnh tín đối với Tam bảo, Bởi chỉ có ánh sáng của Tam bảo mới đủ năng lực xua tan bóng tối của vô minh, dập tắt tham ái và đoạn tận khổ đau. Đỉnh cao của lòng tin là tín tâm, tin tưởng tuyệt đối vào bản tâm thanh tịnh, tự tánh giác ngộ hằng hữu nơi chính bản thân mình. Từ đó nỗ lực tu tập làm hiển lộ chơn tâm sáng suốt, thể nhập chân lý.
Khi đã có lòng tin, người cư sĩ được năm lợi ích. Đó là: được chư tôn thiền đức thương tưởng, thăm viếng, đến nhà thọ trai, thuyết pháp và khi thân hoại mạng chung được sanh lên cõi trời. Đặc biệt, chính niềm tịnh tín là “chỗ nương tựa cho quần chúng, cho các Tỷ kheo, Tỷ kheo ni, cho nam cư sĩ và cho nữ cư sĩ”.
Đức tin là mẹ của tất cả công đức, là nền tảng để phát sanh mọi thiện pháp. Vì vậy, nếu chưa có lòng tin thì phải thiết lập, khi đã phát khởi được tịnh tín rồi thì củng cố và trau giồi để niềm tin thêm kiên cố. Chánh tín và tịnh tín Tam bảo là một trong những vấn đề quan yếu mà mỗi người con Phật phải thành tựu để làm cơ sở cho việc tu học, lợi mình lợi người. Trong bối cảnh khủng hoảng về niềm tin, hoài nghi các giá trị đạo đức, chạy theo thực dụng như hiện nay thì hơn lúc nào hết hàng Phật tử phải tin sâu lời Phật dạy để sống hướng thiện, vị tha, an vui và giải thoát, đồng thời góp phần bảo lưu gìn giữ những chuẩn mực đạo đức, văn hóa truyền thống của dân tộc.

Chủ Nhật, 18 tháng 12, 2011

Sống - Không - Để - Lại !


Sống chan hòa sự sống
Sống yêu thương mọi người
Sống hữu ích người ơi !
Sống tha thứ, bao dung
Sống tỉnh giác, từng giây.
Không rời xa hơi thở
Không đấu tranh bằng lời
Không kiêu mạn người ơi !
Không giận để thôi giận
Không tham lam của người.
Để tâm luôn hạnh phúc
Để cho đời thêm vui
Để người bớt sầu lo
Để tương lai tươi sáng
Để cội Đức bền lâu
Lại một lần nhắc thức
Lại thêm ngày an vui
Lại hiểu thương mọi người
Lại cho tâm hỷ xã
Lại mỉm cười với Ta.
Chúc cả thảy mọi nhà
Biết lắng nghe với nhau
Biết thương yêu chính mình
Là an vui giải thoát.
Nam Mô A Di Đà Phật

Thứ Tư, 7 tháng 12, 2011

Nhìn Lại Niềm Tin Chính Mình !


 Ngày xưa con người vì quá lạc hậu, yếu đuối nên tự khuôn ép tư tưởng vào những mê tín kỳ quặc; phó thác đời mình trong nghi thức sùng bái thần linh, quỷ mị, để tự trấn an, xoa dịu, cầu khẩn đủ mọi thế lực bên ngoài. Từ đó không biết bao nhiêu hình thức tôn giáo, tín ngưỡng ra đời.
Sự phát sinh nhiều tín ngưỡng như vậy cho thấy con người của thời đại xưa luôn luôn sợ hãi, hằng mong cầu tìm kiếm cho mình một nơi nương tựa che chở, lắng dịu tâm hồn.
Quan niệm tư tưởng như thế mãi kéo dài cho đến khi đạo Phật ra đời. Bằng sự giác ngộ rốt ráo siêu việt. Đức Phật đã chỉ rõ đâu là mê đâu là tỉnh, cũng như cả thế giới, vũ trụ này đều do sự chuyển động tâm thức mà ra. Một số người bấy giờ bắt đầu học được chánh tín. Nhận ra ngay chính bản thân mình là nơi nương tựa, là nơi quyết định xa lìa vô minh phiền não đạt đến giác ngộ vô sanh.
Cho đến ngày nay hơn hai ngàn năm trăm năm, giáo pháp giác ngộ vẫn tồn tại, phát triển, và luôn luôn thích ứng với mọi hoàn cảnh, thời đại. Lại có thể nói nhờ vào chánh tín mà lời Phật dạy mới tồn tại, việc tu học của chúng ta mới được kết quả.
Nếu việc thực hành giáo pháp không gây cho ta niềm tin xác đáng, hay lệch lạc với lẽ phải đời sống thì kết quả hành trì sẽ không mang đến an lạc, hạnh phúc.
Niềm tin trong đạo Phật hẳn nhiên không phải là niềm tin mù quáng, chấp nhận, phó thác không suy xét. Trong lần nói chuyện với dân xứ Kesaputta đức Phật đã dạy như sau:"Hảy đến đây: người Kalama, Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì nghe nói lại (tỷ như nghĩ rằng ta đã nghe điều này từ lâu). Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì tập tục cổ phong truyền lại như thế (tỷ như nghĩ rằng điều này đã được truyền lại từ bao nhiêu thế hệ). Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì lời đồn đãi như vậy (tỷ như tin lời người khác mà không suy xét). Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì điều ấy đã được ghi chép trong kinh sách. Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì mình đã ức đoán như vậy. Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì mình suy diễn như vậy. Không chấp nhận điều gì theo bề ngoài. Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì điều ấy hợp với thành kiến mình. Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì điều ấy hình như có thể chấp nhận được (tỷ như nghĩ rằng điều này phải được chấp nhận). Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì vị tu sĩ thốt ra điều này đã được ta kính trọng từ trước (và như vậy lời nói phải được chấp nhận).
Tuy nhiên khi tự các con hiểu rõ rằng - những điều này không hợp luân lý; những điều nầy đáng được khiển trách, những điều này bị các bực thiện trí thức cấm đoán, nếu thực hiện những điều này sẽ bị phá sản và phiền muộn - thì hẳn các con phải từ bỏ, không làm điều ấy.
Khi tự các con hiểu rõ rằng - những điều này hợp luân ý; những điều này không bị khiển trách, những điều này được các bậc thiện trí thức tán dương, nếu thực hiện những điều này sẽ được an vui hạnh phúc - thì hẳn các con phải hành động đúng như vậy ."
Những lời dạy này cho chúng ta thấy sự xác tín rất quan trọng; đòi hỏi sự căn nhắc kỹ càng trước khi tin để thực hành. Việc thực hành với niềm tin như thế sẽ mang đến kết quả mỹ mãn, trái lại thực hành không mang lấy một niềm tin gì, điều này chẳng có lợi ích chi. Kinh Hoa Nghiêm dạy: "Tin là nguồn gốc mẹ công đức, nuôi lớn tất cả các pháp lành, đoạn trừ lưới nghi ra khỏi dòng ái, mở bày đạo vô thượng Niết-Bàn...." Chúng ta theo đạo Phật vì thấy được giá trị lợi ích thiết thực của Phật pháp đối với đời sống con người và xã hội, thấy được những gì Đức Phật dạy là chân lý. Chúng ta nhận thấy đạo Phật không đơn thuần là một tôn giáo mà gồm thâu cả khoa học, triết học, đạo đức học, nghệ thuật sống… Chúng ta mộ Phật không vì hưởng ứng theo số đông hoặc vì tổ tiên ông bà chúng ta theo đạo Phật. Đức Phật dạy chúng ta chỉ nên tin vào những gì đem lại an lạc hạnh phúc cho mình, cho người trong hiện tại và tương lai, đó chính là niềm tin chân chính và sáng suốt.
Niềm tin của người Phật tử, tức người đã quy y Tam bảo - quay về nương tựa Phật, Pháp, Tăng - thọ trì năm giới, thực hành đời sống tại gia tu hành, là niềm tin tuyệt đối vào Đức Phật, Phật pháp và Tăng già. Người Phật tử tin rằng Đức Phật là bậc giác ngộ hoàn toàn về ba phương diện: tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn, có trí tuệ và phương tiện thiện xảo, Đức Phật có thể dìu dắt chúng sinh ra khỏi vòng vô minh lầm lạc, đạt đến an lạc, cứu cánh Niết bàn. Người Phật tử tin rằng Phật pháp là chân lý mà Đức Phật đã thân chứng, là phương pháp diệt khổ, là con đường đưa đến an lạc giải thoát. Phật tử tin rằng Tăng già là đoàn thể những người tiếp bước chư Phật đi trên con đường giác ngộ giải thoát và dìu dắt chúng sinh. Luận Đại thừa khởi tín có nói: “Lòng tin có bốn: Một là lòng tin cội gốc, nghĩa là luôn nghĩ pháp Chơn như. Hai là tin Đức Phật có vô lượng công đức, thường tưởng nhớ, gần gũi cung kính, cúng dường, phát khởi tâm lành để cầu Nhứt thiết trí. Ba là tin Pháp có nhiều lợi ích, thường nhớ tu hành cho rốt ráo. Bốn là tin Tăng hay tu hành hạnh lợi mình lợi người, thường gần gũi các bậc Bồ tát cầu học hạnh như thật”.
Niềm tin là một trong bảy tài sản của bậc Thánh (Thất Thánh tài). Kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật dạy: “Niềm tin là mẹ sinh ra các công đức”. Bởi vì có niềm tin nơi Đức Phật, có niềm tin nơi Chánh pháp, nơi Tăng già, các bậc đạo sư thì mới quy ngưỡng và tín thọ, phụng hành giáo pháp đưa đến thành tựu phạm hạnh, an lạc giải thoát. Kinh Tâm Địa Quán, Đức Phật dạy: “Như người không có tay, tuy đến núi châu báu cũng không lấy được gì; người không có lòng tin, dù gặp Tam bảo cũng không ích gì”. Đức Phật lại dạy: “Người có lòng tin mà không hiểu giáo lý thì dễ tăng trưởng vô minh si ám, người hiểu giáo lý mà không có lòng tin thì dễ tăng trưởng tà kiến. Cho nên lòng tin và hiểu biết phải cùng có đủ để làm cội gốc tu hành” (Kinh Niết Bàn). Thấy được giá trị lợi ích của Chánh pháp đối với cuộc đời, chúng ta phát khởi lòng tin, và nhờ niềm tin ấy mà nỗ lực thực hành Chánh pháp. Càng thực hành, càng áp dụng vào đời sống, càng được an lạc hạnh phúc thì niềm tin càng tăng trưởng và kiên cố thêm. Kinh Niết Bàn nói: “Lòng tin làm nhân cho nghe pháp và nghe pháp làm nhân cho lòng tin”.
Đến với đạo Phật không phải để cầu đảo van xin, không phải để nương tựa thần quyền. Niềm tin trong đạo Phật hướng về những điều mà Đức Phật đã giác ngộ, đó là duyên sinh, nhân quả nghiệp báo, là vô thường, khổ, không, vô ngã… Nếu xây dựng niềm tin không vững chắc, hoặc niềm tin có được trên cơ sở nhận thức cảm tính mà không xuất phát từ lý trí, từ kinh nghiệm thực tiễn thì sớm muộn niềm tin ấy cũng bị đổ vỡ. Người ta dễ dàng bỏ đạo, thay đổi thái độ, quan điểm cũng chỉ vì niềm tin không kiên cố. Người ta dễ dàng bị lôi cuốn, tha hóa, chạy theo tà đạo, rơi vào mê tín dị đoan, làm điều tà mị cũng vì không có niềm tin chân chính bền vững.
Ngoài ra còn một điều hết sức quan trọng là lòng tự tín của người Phật tử. Đây là niềm tin căn bản nhất không thể thiếu. Lòng tự tín là lòng tin vào khả năng giác ngộ của chính mình, tin rằng mình sẽ thành Phật nếu nỗ lực tu hành. Bởi sự giác ngộ là tự mình giác ngộ chứ không ai có thể giác ngộ thay cho, vì thế nếu không có lòng tự tin thì chúng ta không nỗ lực. Đức Phật đã dạy: “Hãy tự xem con là hải đảo của con. Hãy tự xem con là chỗ nương tựa của con. Không nên tìm nương tựa nơi ai khác (Kinh Niết Bàn), và “Các con phải tự mình nỗ lực, các đấng Như Lai chỉ là người thầy dẫn đường”(Pháp Cú, 276) .
Tóm lại niềm tin căn bản trong đạo Phật là niềm tin Tam bảo: Phật, Pháp, Tăng và niềm tin tự thân, tin vào khả năng giác ngộ của chính mình, tin mình có thể đạt đến chỗ toàn Chân, Thiện, Mỹ và giác ngộ giải thoát. Một khi có niềm tin nơi Tam bảo là những gì được xem là chân lý, là thánh thiện thì con người sẽ phấn đấu hướng đến những gì tốt đẹp nhất để đạt được mục tiêu an lạc hạnh phúc trong hiện tại và tương lai, cũng như con thuyền đã xác định phương hướng, đã có bến đỗ.    
Người Phật tử trên bước đường tu học cũng giống như một con thuyền đang lướt sóng trên biển, tức là phải gặp nhiều khó khăn gian khổ, nhiều chông gai thử thách. Nhưng khi con thuyền đã xác định rõ phương hướng, biết đích xác đâu là bờ thì chỉ còn nhờ vào sự nỗ lực và tài năng lèo lái con thuyền của người thuyền trưởng mà thôi. Người Phật tử cũng vậy, một khi đã có niềm tin vững chắc vào Tam bảo, vào tự thân, đã thấy rõ mục tiêu hướng đến, bằng sự tinh tấn nỗ lực sẽ mau chóng thành tựu, đạt được lý tưởng của mình. Nếu niềm tin không kiên cố, hoặc tin mà không có trí tuệ thì niềm tin ấy dễ dàng bị lung lạc bởi sự tác động của hoàn cảnh hay ngoại đạo, tà thuyết.
Để có được niềm tin sáng suốt, chân thật sau đây chúng ta tìm hiểu sơ lược một vài đức tin căn bản mà người Phật tử cần nên có.
 Tin Đức Phật
Như một con người, thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha) họ là Cồ Đàm (Gotama) ra đời năm 624 trước tây lịch cách đây 2622 năm ở Ấn Độ. Vương quốc Ngài, tên Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu) cách thành phố Ba La Nại (Benares) 100 dặm về hướng đông bắc và khoảng 40 dặm gần núi Hy Mã Lạp Sơn (Himalaya).
Lịch sử này được ghi lại do các nhà khảo cổ Ấn Độ và Tây Phương khám phá ra, cộng với chứng tích lịch sử của trụ đá vua A Dục (Asoka) để lại (thế kỷ thứ 3 trước Tây lịch).
Truyền thuyết ghi rằng, tuy thái tử sanh ra và lớn lên trong nhung vàng nệm ấm, trong yêu thương, tôn kính. Nhưng Ngài vẫn nhận ra mầm móng đau khổ, lụy phiền của kiếp nhân sinh, mầm móng của sự đổ vỡ, bất toàn trong cảnh màu vàng tráng lệ. Cho đến dịp chứng kiến cảnh thật trong cuộc sống. Nhận thấy con người phải vất vả, lăn lóc, đấu tranh để mưu sinh. Loài cầm thú giành giựt giết hại lẫn nhau vì sự sống. Cảnh đau khổ của Già, Bệnh, Chết và đặc biệt nhất là mục kích hình ảnh vị đạo sĩ mang phong thái đoan nghiêm trầm tĩnh...Bao yếu tố đó đã nảy sanh trong tâm thái tử niềm băn khoăn, thao thức cho bản chất đời sống con người, từ đó đưa đến quyết định cho con đường xuất trần, thoát tục.
Thái tử vượt thành tầm đạo, trải qua sáu năm khổ hạnh. Học đạo và chứng được mọi pháp tu của các đạo sĩ nỗi danh nhất thời bấy giờ. Tuy vậy thái tử vẫn chưa tìm được ánh sáng giác ngộ mà Ngài mong đợi. Cuối cùng bằng sự vận dụng trí lực kiên trì Ngài đã tự mình giác ngộ qua con đường Trung đạo (lìa hai cực đoan: buông lung khoái lạc và ép xác khổ hạnh), để trở thành bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Từ đó Ngài được tôn xưng là Phật nghĩa là một người hoàn toàn thức tỉnh, giác ngộ, gột sạch hết mọi phiền não khổ đau...
Sơ lược dòng đời của Ngài chúng ta thấy, sự giác ngộ không đến từ bên ngoài; không phải lìa sự nỗ lực tự thân mà tìm cầu được chân lý. Do vậy tất cả là một thực tế sáng tỏ, cho thấy đức Phật là một con người bình thường như bao người.Và sự kiện Ngài trở thành Phật là kết quả của một cuộc chiến thắng vĩ đại to lớn nhất ở nội tâm. Truyện truyền kỳ trong kinh văn đã kể lại cuộc chiến đấu giữa Phật và Ma Vương vị chúa tể của sắc ái, tham lam, dục vọng ở thế gian. Kết quả Ma Vương phải thất bại lẩn vào trong bóng tối, để nhường lại ánh sáng huy hoàng giải thoát.
Tin giáo pháp Phật là chân lý
Giáo lý kinh điển của Phật cao rộng muôn trùng, sâu xa thăm thẳm. Pháp môn lại có đến tám mươi bốn ngàn. Tùy mọi căn cơ của chúng sanh mà khai ngộ. Người học Phật dù trình độ cao thấp ra sao nếu muốn nghiên cứu, hành trì vẫn được như ý.
Tuy rằng theo truyền thống, tập quán, phong tục hình thái, tín ngưỡng mỗi nơi có phần sai biệt; điều này cũng do thích nghi với hoàn cảnh. Tuy nhiên tất cả vẫn mang một sức sống thực và luôn luôn khai phóng luồng ánh sáng trí huệ vào tâm thức con người. Luồng ánh sáng đó là chân lý bất-di bất dịch của vạn pháp. Để xác tín cho niềm tin giáo pháp của Phật là chân lý, xin đưa ra giáo pháp căn bản nhất là Tứ Diệu Đế.
Tứ Diệu Đế được xem là phần giáo lý cội gốc của đạo Phật và cũng là tinh ba quan trọng cho mọi người con Phật không phân biệt Tiểu thừa hay Đại thừa, Thiền tông, Tịnh độ.v.v...
Hầu hết người Phật tử ít nhiều đều biết qua Tứ Diệu Đế. Tứ Diệu Đế là bài thuyết pháp đầu tiên của đức Phật. Ngài giảng dạy cho năm anh em tôn giả Kiều Trần Như tại vườn Lộc Uyển (Deer park) gần Ba La Nại (Benares).
Tứ Diệu Đế là bốn sự thật vi diệu, hay gọi là bốn chân lý vi diệu, đó là: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế.
Khổ đế
Khổ là một sự thật. Một sự thật hiển nhiên rõ ràng, ai ai cũng thấy biết. Một đứa bé mới sanh cũng đã tiết lộ cho mọi người thấy đó là tiếng khóc "Thoạt sinh ra thì đà khóc chóe, Trần có vui sao chẳng cười khì..." (Nguyễn Công Trứ) hay là "Thảo nào khi mới chôn nhau, Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra" (Ôn Như Hầu). Tiếng khóc ấy kéo dài đăng đẳng đến lúc nhắm mắt lìa đời trong hình dáng một người già đau bệnh. Sự thật của khổ được thấy qua một cách cụ thể khi đức Phật dạy "Nầy các Tỳ Kheo, đây là chân lý về sự đau khổ: Sinh là khổ, già, đau, chết là khổ, gần người thù, xa người thân hoặc không đạt được nguyện vọng đều là khổ. Tóm lại những yếu tố vật lý và tâm lý cấu tạo nên con người đều đau khổ ."
Nhìn nhận đời là khổ không phải là bi quan, yếm thế mà là sự thành thật, sáng suốt thừa nhận. Nếu người ta có thể vui vẻ, phớt lờ được cái khổ nói trên, thì mới dám nói đây là quan niệm bi quan, yếm thế.
Thế gian vô thường, hoàn cảnh vật chất luôn thay đổi, hư hoại; con người lại nằm trong cái hư hoại đó thử hỏi làm sao tránh được khổ; cho nên khổ là chân lý. Và đã là chân lý thì dù ta có bi quan hay lạc quan khổ vẫn là khổ.
Tập đế: nguyên nhân của khổ
Nguyên nhân của khổ là do tham ái, dục tình. Chính sự luyến ái tham vọng này mà kéo đưa con người mãi trong vòng sanh tử. Việc khát khao ôm giữ tham dục không biết nhàm chán, từ đây sinh ra cái khổ triền miên không dứt.
Con người đã lầm tưởng, một ước ao ham muốn nào đó sẽ dừng nghỉ khi được thỏa lòng chiếm hữu. Nhưng sự thật lại không bao giờ hài lòng thỏa mãn. Một gia tài kết xù lại quá nhỏ bé với một con người đầy tham vọng. Một mối tình đẹp của đôi tình nhân tưởng là hoa mộng thiên thu, nhưng rồi thỏa mãn hoa mộng đó cũng nguội lịm đi, và ước vọng dục tình khác lại nảy nở. Điều hạnh Phúc của người này nhưng là việc đau khổ của người kia, và điều hạnh phúc của người kia thì họ chẳng bao giờ thấy đủ. Cái nghịch đảo bất thuận này nào đâu phải là nguyên nhân xa xôi huyền bí, tất cả chỉ là do lòng tham dục mà ra. Chẳng hạn kẻ ăn xin bỗng dưng may mắn trở thành người đầy đủ tiền bạc, vậy mà một thời gian trôi qua; người ăn xin này bây giờ đã đầy đủ lại thấy mình còn thiếu kém khi nhìn người bên cạnh đầy đủ hơn. Thậm chí đến ngay kẻ đầy đủ nhất vẫn còn thấy cái đầy đủ đó không đủ như ước muốn. Và vậy vẫn có cái khổ ở mức độ nào đó mà nhiều người tưởng rằng phi lý! Ứơc muốn kia chính là lòng tham muốn dục vọng không đáy. Do đây Phật dạy "Này các Tỳ Kheo, đây là chân lý nguyên nhân sự đau khổ: Chính vì dục vọng mà ta phải luân hồi và cứ chạy theo lạc thú ở đời mãi ."
Diệt đế: diệt trừ tham ái, phiền não
Biết được nguyên nhân tham dục, luyến ái là khổ. Vậy muốn diệt khổ thì phải chấm dứt mầm mống nguyên nhân này. Cũng như kẻ đau bệnh biết được bệnh phải chữa trị ngay, nếu không dù có rành mạch phân tích biết rõ lý bệnh cũng chẳng ích chi, rồi phải chết trong đau tiếc.
Khi khổ đã không còn hay nói cho đúng là tham dục, luyến ái, vọng tình, sân giận, si mê, vô minh, phiền não đều chấm dứt thì ở đây sự an tịnh, giải thoát có mặt và trạng thái an lạc này còn gọi là Niết Bàn. Do đó kết luận rằng khổ chỉ có thể tiêu mất khi Diệt đã được thực hành, đó là chân lý.
Đạo đế: con đường đưa đến sự diệt khổ
Là con đường hướng dẫn hành giả làm thế nào đi trọn cuộc hành trình dứt lìa tham dục phiền não. Phương pháp thực hành tu tập được đức Phật dạy qua pháp Trung đạo, xa lìa hai cực đoan sai lầm: hành xác khổ hạnh và tham đắm khoái lạc. Hai lối sai lầm này được Phật ví như dây đàn căng quá và trùn quá. Đàn có thể nghe được khi mức độ căng dây vừa phải.
Con đường trung đạo được biết qua tám pháp gồm có:
1. Chánh kiến (hiểu biết chân chánh)
2. Chánh tư duy (suy nghĩ chân chánh)
3. Chánh ngữ (lời nói chân chánh)
4. Chánh nghiệp (hành động chân chánh)
5. Chánh mạng (sinh hoạt chân chánh)
6. Chánh tinh tấn (cố gắng siêng năng chân chánh)
7. Chánh niệm (Ký ức chân chánh)
8. Chánh định (định tâm, tập trung chân chánh)
Trong tám pháp đây được chia ra làm ba môn lậu học mà người tu Phật phải xem là điều tối cần không thể lìa bỏ, đó là: Giới, Định, Huệ.
Các phần Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng thuộc về Giới.
Các phần Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định thuộc về Định. Và phần Chánh kiến, Chánh tư duy thuộc về Huệ.
Nền tảng của Giới, Định, Huệ là căn bản cho con đường giải thoát. Bởi Giới là điều kiện ngăn chặn nghiệp ác, tăng trưởng nghiệp lành của ba nghiệp Thân Khẩu Ý. Định là định lực tập trung thanh lọc tư tưởng, và Huệ là trí huệ thanh tịnh sáng suốt phát sinh ngay khi đó, sau khi Giới và Định lưu thông. Như thế đạo đế là chân lý rốt ráo trong việc giải quyết sinh tử.
Trên đây chỉ tóm lược ý chính, nội dung của Tứ Diệu Đế để thấy rõ giáo Pháp của Phật là chân lý. Nếu muốn rõ hơn xin tra cứu ở những sách khác sẽ được khai triển rộng thêm.
Tin khả năng giác ngộ
Trong kinh Phạm Võng Phật dạy "Đại chúng lòng nên tin chắc: Các người là Phật sẽ thành. Ta đây là Phật đã thành." Lời Phật dạy nói lên giáo pháp giải thoát không là của riêng ai. Điều giác ngộ giải thoát này sẵn có trong tâm của mọi người. Xưa kia khi Phật còn là Thái tử, Ngài cũng đã trăn trở, dằn vặt với bao tham mê, giác tỉnh luôn hoành hành trong tâm tư. Nếu sự giác ngộ tự nhiên mà đến thì Ngài chẳng lìa cung điện tìm đạo làm gì. Phải chăng điều này cho thấy Ngài đã vất vả mới tìm ra đạo giải thoát.
Con người ngày nay nếu muốn tìm hưởng an lạc thì cũng phải dừng lại mọi phiền não lăng xăng. Phải nỗ lực lướt thắng những đam mê sa đọa và điều cần yếu nhất là phải tin vào khả năng của chính mình.
Giáo lý đức Phật đã đưa ra phương cách nhận diện khổ và diệt khổ một cách rõ ràng. Sự thật đó được thấy và được trực nghiệm ở ngay hoàn cảnh môi trường chúng ta. Bằng niềm tin chánh tín và tư duy sáng suốt chúng ta có thể hành động đúng theo nguyên lý sự thật ngay trong cuộc sống hiện tại mà không phải tìm vào sự ban ơn giáng phước của thế lực thần linh. Trong kinh Pháp Cú có dạy như sau: "-Con người kinh hãi đi tìm nương tựa ở nhiều nơi đồi núi, rừng, vườn, cây cối, và đền miếu.
-Không, đó không phải là nương tựa an toàn, không phải nương tựa tối thượng. ...nương náo như vậy không thể thoát ra khỏi phiền não.
Người đi tìm nương tựa nơi đức Phật, Giáo Pháp và Tăng Già, có tri kiến chơn chánh để nhận thức Tứ Đế - Khổ, Nguồn khổ, Vượt khỏi khổ, và Bát Chánh Đạo, dẫn đến sự Diệt khổ.
Đó quả thật là nương tựa an toàn. Đó quả thật là nương tựa tối thượng. Tìm đến các nương tựa ấy ắt thoát ra khỏi mọi phiền não ."
Với niềm tin vào ba ngôi Tam Bảo và khả năng của chính con người để phá trừ mê tín như vậy. Con người sẽ có được nghị lực tin cậy ở ngay chính bản thân mình trên con đường thoát ly sinh tử, và như thế là niềm tin trong đạo Phật.